16.5 C
Da Lat
Thứ Ba, 26 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 112

Bố già – Tượng đài huyền thoại về mafia trong văn chương thế giới

2

thđp review

“Người ta sinh ra đâu đã là vĩ nhân ngay – vĩ nhân là do rèn luyện mà thành.”

Tiểu thuyết Bố già quả thực đã để lại trong tôi một dấu ấn sâu đậm, được tích lũy ngay từ khi mở trang đầu tiên cho tới khi gấp cuốn sách lại. Theo góc nhìn cá nhân, điều đáng giá bậc nhất của cuốn tiểu thuyết này là khả năng xây dựng hình tượng nhân vật vô cùng sắc nét và tinh tế. Tất cả những con người xuất hiện trong đó không hề lẫn lộn với nhau, không có ai là mờ nhạt dù chỉ xuất hiện trong một đôi cảnh. Họ đều được khắc họa bởi những đặc trưng tính cách riêng biệt và được móc nối vào chuỗi sự kiện một cách chỉn chu, khéo léo, nếu như không nói là hoàn hảo.

Người đặc biệt nhất trong số đó, theo tôi, chính là ông trùm Vito Corleone – một tượng đài sừng sững không chỉ trong thế giới ngầm mà trong cả nền văn chương thế giới. Hình ảnh của ngài Vito được gây dựng nên từ rất nhiều nguồn phản ánh: Vợ con, bè bạn, người chịu ơn, kẻ thù, và từ chính ông ta nữa.

“Xin anh em nhớ kỹ, tôi không rắp ranh, không mưu mô gì hết. Chẳng qua tôi chỉ cẩn trọng mà thôi, trên đời không có gì tôi ghét bằng bừa bãi, cẩu thả. Đàn bà, trẻ con làm bừa làm ẩu còn có thể tha thứ được, chứ đàn ông thì cấm chỉ.”

Theo những quan sát thu thập được từ tác phẩm, tôi có thể phác họa sơ bộ đặc điểm của ông Trùm Vito Corleone là một người sống có đạo lý, coi trọng gia đình và trân quý những người bạn. Ông sử dụng tiền bạc, quyền lực và các mối quan hệ như những phương tiện để thực hiện lý tưởng của mình, chứ không phải làm mọi việc để có được ba thứ trên (điều mà các phe cánh mafia khác hướng tới.) Thận trọng, điềm tĩnh, kỷ luật, tinh anh, quyết đoán và tầm nhìn vượt trội là những dấu hiệu nhận biết ông Trùm Vito Corleone. Đối với ông, sự bộc phát, giận dữ và đàn điếm là những thứ tai hại và ngu xuẩn nhất một người đàn ông có thể mắc vào.

Ở trong chuyện làm ăn, một bước đi tùy tiện/ngẫu hứng cũng đủ làm sập cơ đồ, một lần phát hỏa là cũng thừa cơ đi chầu tiên tổ. Còn khi đã để sự phóng đãng dâm ô làm mờ con mắt thì hắn ta hoặc là trở nên cẩu thả, hoặc là dễ nổi cơn tam bành.

Nhắc đến ông trùm Vito, người ta sẽ nhớ ngay đến câu nói đã đi vào huyền thoại, chứng minh tài trí và sức mạnh quyền lực to lớn của ông:

“Ta sẽ đưa ra một đề nghị mà hắn không thể chối từ.” (I’m gonna make him an offer he can’t refuse.)

Nội dung tiểu thuyết Bố già chủ yếu mô tả sự phát triển (thành – bại) của “vương quốc” nhà Corleone (giữa mối tương quan với các đối thủ) trong thế giới ngầm – nơi lưu trú của các địa hạt kinh doanh dầu, ma túy, khách sạn, sòng bạc, mại dâm, đề đóm, cho vay nặng lãi, bất động sản, v.v… Chúng diễn ra song song với bất kỳ hoạt động nào khác trên đời (nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy). Sự thao túng quyền lực vô cùng tinh vi của mạng lưới tội phạm đã ăn sâu vào pháp luật, quan chức nhà nước, cảnh sát và truyền thông. Hệ thống chân rết được hình thành khổng lồ nằm sâu trong bóng tối dưới sự kiểm soát của những ông Trùm mafia. Một trong số họ – Don Vito Corleone đã trở thành quan tòa tối cao quyết định công lý – sống hay chết, chiến tranh hay hòa bình, có tội hay vô tội.

Bên cạnh sự phức tạp và sức ảnh hưởng lớn lao lên cục diện thế giới của tảng băng chìm xã hội đen, tác giả còn khắc họa bức tranh tâm lý con người – các mắt xích nòng cốt hình thành nên thời cuộc. Tất cả các động lực dẫn tới hành động của nhân vật trong cuốn tiểu thuyết đều được hé mở theo diễn biến nội tâm của kẻ đó, cách kẻ đó nhìn nhận cuộc đời/tình thế cũng như các dấu vết trên dòng thời gian đã định đoạt số phận của hắn.

Bố già không chỉ là áng văn bất hủ về tội phạm thế giới ngầm, mà còn là tác phẩm xuất sắc về tâm lý học. Tôi chưa từng đọc một cuốn sách nào có sự thao túng tâm trí ở tần suất và chất lượng cao như tác phẩm này. Nếu không nắm bắt được tâm lý con người, thì sự thao túng của các nhân vật trùm sò sẽ không ra cơm cháo gì; những cuộc thương lượng, mua bán, thu phục, đe dọa, thậm chí là xin tiết báo thù sẽ chẳng thể diễn ra trơn tru, ngọt lịm. Sự sắc sảo và công phu của tác giả Mario Puzo trong việc gây dựng các ngón đòn trí óc tinh vi trong tác phẩm này đã khiến Bố già trở thành đỉnh cao trong sự nghiệp văn chương của ông.

Nói đến sự dày công nghiên cứu và sắp đặt các biến cố cũng như gỡ giải chúng một cách ngoạn mục của tác phẩm Bố già, tôi lại nhớ đến series phim Vượt ngục (Prison Break) đã từng vắt não ra để xem trước kia. Có lẽ, văn phong đỉnh cao hay nội dung giàu ý nghĩa thì có thể nhiều tác phẩm đạt được, nhưng sự bố trí sắp đặt hoàn hảo một mạng lưới nhiều nhân vật với diễn biến nội tâm và tư duy phức tạp, đặc biệt ở trong thế giới ngầm đầy toan tính, lọc lừa, ngụy tạo thì không phải ai cũng đủ trình độ để thực hiện.

Chưa dừng lại ở đó, tác phẩm còn nêu bật lên tầm quan trọng của gia đình, bè bạn và giá trị của thông tin đối với sự sống còn của một con người hay một đế chế. Những bài học về cách ứng xử lấy nhu chế cương, cân nhắc/lựa chọn thời điểm để hành động được đề cao hơn cả. Đặc biệt trong thế giới ngầm đầy hiểm nguy, một kẻ chỉ cần mắc một sai lầm nhỏ trong bước đi cũng đủ làm suy sụp toàn bộ thành tựu nhiều năm gầy dựng, thậm chí hắn sẽ được ăn no đạn chì vào lúc nào không hay.

“Ăn nhau ở chỗ tình bạn. Tình bạn cao hơn tài năng, mạnh hơn mọi chính thể. Nó chỉ có thua tình máu mủ một chút thôi, mày chớ có quên.” – Vito Corleone

Các đường đi nước bước được những kẻ đứng đầu tính toán hết sức công phu. Thậm chí, một hành động trước khi được thực hiện phải mất hàng năm trời để quan sát, thâu tóm và dọn dẹp tất cả các biến cố có thể liên đới. Ở đây không hề có chuyện “tao làm vì tao thích thế”, mà là “tao làm vì tao đã có sự chuẩn bị kỹ càng”. Sự lạnh lùng, tỉnh trí và khả năng chịu đựng áp lực về thời gian là những phẩm chất cốt yếu làm nên vinh quang sau cùng của những nhân vật tầm cỡ.

“Nhưng ông Trùm thì không bực. Từ lâu ông đã hiểu rằng ngoài đời một bước đi là một chuyện ngang tai trái mắt, nhưng vẫn cứ phải nhịn, phải tự an ủi rằng nếu biết ẩn nhẫn chờ đợi thì thế nào cũng có ngày một kẻ hèn yếu vẫn trả thù được những đứa có quyền thế. Chân lý giản đơn ấy đã giúp ông tránh được cái thói cương cường mà biết khôn ngoan nín nhịn khiến những người gần ông đều phục sát đất.”

Tôi đã đọc cuốn sách một cách say sưa, không bỏ qua bất kỳ một chữ nào, một phần vì nội dung truyện quá lôi cuốn và kịch tính nên tạo cảm giác hưng phấn, tỉnh táo khác lạ, một phần vì tác phẩm có khá nhiều nhân vật xuất hiện nên đòi hỏi sự tập trung cao hơn mức bình thường để có thể bao quát được bức tranh lớn.

Ngoài ra, văn phong của tác giả rất đặc sắc với lối kể hoang dã, bụi bặm mà không kém phần mỉa mai, châm biếm, pha chút gì đó khinh khi, lạnh nhạt như một nụ cười khóe miệng nên càng làm tôi thêm hứng thú. Lời thoại đơn giản mà chặt chẽ, cương quyết mà linh động, ngắn gọn mà đủ đầy tinh chất (cả ý và lời). Tôi không biết phải chê cuốn sách này ở điểm nào nữa.

“Nếu lí trí chẳng có giá trị với chúng ta thì, xin hỏi quý vị bằng hữu, chúng ta là cái giống người gì nhỉ? Không có trí khôn thì khác nào dã thú? Nhưng may thay, chúng ta có trí khôn – ta có thể bàn bạc nói phải quấy với nhau và với chính mình.” – Vito Corleone

Bộ phim được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết kinh điển này được đánh giá rất cao với điểm IMDb 9.2/10. Bố già được coi là một trong những bộ phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, chiến thắng 3 giải Oscar và hàng loạt các giải thưởng danh giá khác.

Có lẽ, tôi may mắn khi được tiếp cận bộ phim trước cuốn tiểu thuyết. Nhờ đó, tôi có được hình ảnh con người cụ thể để tưởng tượng theo các tình tiết, đồng thời không bị rơi vào trạng thái hẫng hụt khi nội dung cuốn sách bị cắt gọt phần nào. Đối với cá nhân tôi, diễn xuất của Marlon Brando và Al Pacino lần lượt vào vai ông Trùm Vito Corleone và con trai Michael Corleone đã thể hiện hầu hết tinh thần của tác phẩm. Sự điềm tĩnh đầy chết chóc, sự kiên nhẫn ẩn giấu nội lực khổng lồ sẽ càn quét như vũ bão vào một phút giây không hề báo trước, và sự lạnh lùng toan tính phủ lấp đi cơn hận thù vẫn từng ngày sục sôi tận trong cốt tủy – tất cả được lột tả xuất sắc trên thần thái và giọng điệu của hai diễn viên huyền thoại.

Được thưởng thức tác phẩm lừng lẫy này là một niềm vinh hạnh lớn trong cuộc đời tôi. Xin được miễn trừ phần cho điểm vì với những sản phẩm tinh hoa, tôi không dám gán khuôn vào những con số.

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

Featured Image: Sadie Pices

Yêu lấy chính mình – Khởi sinh của tất cả tình yêu cuộc sống

1

Bạn tôi: Đạo đức của một xã hội đã dạy dỗ chúng ta ngay từ lúc lọt lòng rằng phải yêu thương những người xung quanh. Cậu có nghĩ chính vì thế mà hầu hết chúng ta sống cho người khác và quên đi chính bản thân mình? Tớ có cảm giác mọi người đang tự đè nén và không được yêu thương chính mình.

Tôi: Tớ thấy nực cười. Xã hội này thực sự quan tâm đến vấn đề yêu thương người khác đấy, chính vì thế mà họ không ngừng nói về tình yêu. Nhưng nhìn xem thế giới vẫn đầy rẫy những kẻ giết người, sự căm thù, chiến tranh và bạo lực.

Bạn tôi: Nhưng nếu chúng ta sống mà không yêu thương người khác. Đó là sự ích kỉ?

Tôi: Thực ra tớ nghĩ yêu là điều vị kỉ nhất trên thế giới. Bởi nếu cậu không yêu chính bản thân mình, cậu chỉ đang giả vờ yêu thương những người xung quanh. Mọi đứa trẻ đều được dạy cách duy nhất để hiện hữu có ý nghĩa là vô vị kỉ. Nhưng xã hội đã không dạy chúng rằng nếu chúng vô vị kỉ, chúng sẽ không bao giờ có thể vị tha, chúng sẽ sống rất ích kỉ. Chúng luôn thiếu hụt tình yêu với chính mình, đó là lý do tại sao chúng thèm khát. Sự thèm khát bỏ tù tất cả tình yêu trong chúng, và chúng sẽ không bao giờ muốn cho đi.

Bạn tôi: Nói như cậu thì chỉ có người vị kỉ mới là người biết cách yêu thương người khác?

Tôi: Phải là những người vị kỉ sâu sắc mới có thể không ích kỉ. Nhưng sự thâm thúy này không phải ai cũng có thể hiểu được, vì chúng ngược đời.

Bạn tôi: Tớ không nghĩ một người vị kỉ lại có đủ chỗ cho tình yêu người khác.

Tôi: Tình yêu thương người khác mà cậu đang cưu mang phải chính là tình yêu cao viễn nhất từ cậu. Là tình yêu bất diệt cao thâm nhất mà cậu có. Đó là yêu chính mình. Cậu chỉ có thể yêu thương mọi người khi cậu có tình yêu trong chính mình. Cậu chỉ có thể chia sẻ thứ mà cậu có. Tớ đã nhìn thấy sự ảo tưởng của nhân loại này. Họ luôn rao giảng sự lan tỏa tình yêu thương. Bằng gì? Bằng chính trái tim rỗng tuếch của họ. Họ chỉ đang quan tâm đến vấn đề yêu thương người khác rồi tự huyễn hoặc lừa dối rằng mình đang sống trong tình yêu thương đó. Cậu phải hiểu rằng người hạnh phúc là người thuộc vào bản thân người đó. Sao người đó phải thuộc vào một cộng đồng tổ chức thiện nguyện nào được, họ không thể thuộc vào đám đông. Người ta phải bắt rễ trong chính bản thân mình. Vì con đường đi đến sự tồn tại phải là con đường đi vào sâu bên trong. Cậu có thể xem đó là một sự vị kỉ. Nhưng cậu không thể phục vụ nhân loại bằng nghĩa vụ yêu thương nó. Bởi những kẻ tử vì đạo, tớ nghĩ sự hi sinh của kẻ đó chỉ là điều ngu ngốc. Thoạt nghe thì vĩ đại nhưng thực chất chẳng có ý nghĩa gì.

Bạn tôi: Có những người mà tớ không thể không yêu thương họ. Cha mẹ, anh em, bạn bè, những người nghèo khổ…và giờ đây tớ đang phải ngồi nghe cậu thuyết giảng cách chối bỏ tất cả tình yêu đó.

Tôi: Tớ không khuyên cậu không yêu thương người khác. Tớ cũng không khuyên cậu sống đơn độc và thu mình trong vỏ bọc. Nếu trong lòng cậu tràn đầy tình yêu đối với những người cậu yêu thương, cậu sẽ cố sức làm cho đời sống của họ không thể chịu đựng nổi, và tình yêu thương của cậu bắt đầu biến thành sự ác độc. Nếu cậu quá yêu thương người khác cậu sẽ bắt đầu quên lãng tự thân cậu. Bởi vì cậu sẽ không bao giờ đủ năng lượng để thắp sáng mãi tình yêu đó.

Bạn tôi: Tình yêu cậu đang nói đến chẳng khác nào một quả tim lạnh lùng.

Tôi: Nhưng cậu phải thực sự có một quả tim luôn yêu quý sự hổ thẹn trong cậu thì cậu mới có thể trở nên vĩ đại trong chính tình yêu với người khác. Cậu phải là đôi mắt luôn tìm kiếm những người cậu yêu thương. Nhưng trước khi trông thấy họ, cậu phải luôn học cách biết yêu thương chính bản thân mình. Cậu phải đánh trận chiến của cậu, bởi những tình yêu trong cậu. Vì nếu tình yêu trong cậu thất trận, cậu sẽ chẳng còn gì nữa. Cậu không còn gì thì lấy đâu ra để mang tặng người khác. Quên thế giới, xã hội và những người cậu yêu thương đi. Tận hưởng niềm vui sướng hạnh phúc và tình yêu chính cậu đi, hãy biến mình thành người hạnh phúc nhất cậu từng quen biết. Từ vị kỉ trong cậu sẽ bắt đầu tuôn tràn năng lượng. Cậu sẽ có khả năng chia sẻ với người khác.

Bạn tôi: Xã hội này sẽ không bao giờ hiểu được tình yêu mà cậu đang cưu mang.

Tôi: Tớ không cần phải là cái xã hội ba hoa ồn ào khi nói về tình yêu thương với người khác. Bởi chính một tình yêu thương thích đáng sẽ luôn thánh hóa tất cả mọi sự.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: ADD

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Từ đó tôi gặp tính Không trong đạo Phật

Trong cuộc sống càng ngày càng phức tạp hiện nay, con người đang đi tìm rất nhiều tư tưởng, ý thức hệ, niềm tin, hệ quy chiếu, chân lý… để có thể đánh giá được hành động và cuộc sống của mình: Nó đúng hay là sai, nó có ý nghĩa hay vô nghĩa. Nhiều người chấp lấy tư tưởng của mình mà coi nó là đúng nhất, ý nghĩa nhất mà muốn tất cả thế giới nên sống như họ.  Nhiều người khác thì thay đổi như chong chóng vì từng thời điểm họ lại mặc lấy những tư tưởng, niềm tin khác nhau, và có những người thì cho rằng ý nghĩa hay vô nghĩa tùy thuộc vào cảm nhận, tư tưởng của mỗi người tại mỗi thời điểm mà tôn trọng mọi hình thái cuộc sống.

Tôi cũng như bao người khác đã đi trên con đường này từ thuở nhỏ, đã đấu tranh, giằng xé, mâu thuẫn, bám chấp, buông bỏ… để tìm hiểu điều gì là đúng nhất, ý nghĩa nhất mà sống theo. Nhưng trong những quãng thời gian đấu tranh, dằn vặt mâu thuẫn đó, tôi lại phải tự đặt một câu hỏi khác cho chính mình rằng có điều gì là đúng nhất hay ý nghĩa nhất không, hay mọi thứ chỉ là tấn tuồng của tư tưởng con người?

Trải qua quá trình tự nhìn lại cách thức tư tưởng vận hành, tôi lại càng ý thức rõ ràng về sự mù mờ và giới hạn của tư tưởng khi chính tư tưởng tôi chỉ là những điều đã học được, đã được tích lũy từ quá khứ (từ gia đình, thầy cô, bạn bè, phim ảnh, sách vở, trải nghiệm bản thân…) mà từ đó tôi hành động và sống. Thêm nữa tư tưởng nó không bao giờ đứng yên, nó luôn tiếp tục tích lũy, lựa chọn, từ bỏ điều này, bám lấy điều kia vậy mà lúc nào nó cũng nghĩ rằng điều đấy là đúng nhất, ý nghĩa nhất, là chân lý để rồi sau đó nó lại phủ nhận và mặc lấy những thứ vớ vẩn khác.

Tư tưởng chỉ là những gì tôi đã biết, đã trải nghiệm. Cái đã biết thì hữu hạn mà cái không biết thì vô hạn, vậy mà tôi đã luôn bám vào cái đã biết mà sống trong một cuộc sống vô hạn này, hơn nữa còn muốn thế giới và những người khác cũng phải – nên – cần sống giống như niềm tin của tôi… Và rồi tôi quyết định không tin vào tư tưởng nữa và luôn quan sát, cảnh giác với nó. Nhưng khó khăn nảy ra là tôi sẽ dựa vào điều gì để sống đây? Mọi yêu ghét, niềm tin, ý thức hệ, cái đúng, cái sai đều nằm ở tư tưởng, không có nó tôi phải sống thế nào nếu không có cái gì là đúng sai, yêu ghét, lý tưởng để tôi bám vào?

Và từ đó tôi gặp tính Không trong đạo Phật

“Tính Không trong đạo Phật ở đây không nên hiểu lầm là không có gì hết. Tính Không là không thật thể chứ không phải là không có gì hết. Hơn nữa, Tính Không không phải là không thật có. Tính Không ở đây có nghĩa là một sự vật hiện tượng, dù cho có sự sống hay vô tri, tự thân nó không có sự tồn tại riêng biệt. Nó chỉ có ý nghĩa và tồn tại chỉ khi nào tất cả những yếu tố hay những thành tố làm nên nó cùng nhau biểu hiện và chúng ta có thể hiểu được và đánh giá sự vật hiện tượng một cách rõ ràng.” – Sonam Tsomo (Trúc Thanh chuyển ngữ)

Nhìn một cái cốc, ta thấy nó là có ở đó, nhưng nó không phải tồn tại riêng biệt mà nó chỉ là tổng hợp của những phân tử, nguyên tử, các hạt cấu thành nên. Bản thân chiếc cốc là sự biểu hiện của tất cả các thứ cấu thành nên nó chứ nó không có một tự tính riêng biệt nào cả. Vậy con người chúng ta thì sao? Chúng ta có một tự tính – một bản ngã – linh hồn riêng biệt hay không hay chỉ là tập hợp của nhiều thứ kết hợp lại, thân thể thì ta có thể chấp nhận được, nhưng còn tâm thức – tâm hồn chúng ta thì sao?

Tôi thực sự không có câu trả lời cho nó, và tôi chỉ đi vào thứ tôi ý thức rõ nhất là tư tưởng của tôi, mà tôi cũng không rõ nó có là tư tưởng “của tôi” không vì nó chỉ là tập hợp đủ thứ mà tôi đã tích lũy, vậy thì nó là tư tưởng đang nằm trong não tôi chứ chẳng phải là của tôi. Khi tôi Nhìn vào nó, tôi không tìm được một tự tính nào cả mà mọi thứ như một đám mây không có tâm điểm gì, mọi thứ tan rã và chỉ còn lại sự trống không.

Ban đầu tôi rất sợ cảm giác này, vì mọi mục đích sống của tôi đều nằm ở đó hết, vậy mà giờ nó chỉ là những thứ không-phải-là-chân-lý. Tôi đã sốc, hoang mang và đau khổ, nhưng trong sự đau khổ ấy tôi lại Nhìn thì chính nó cũng tan rã. Vì khi tôi đau khổ, có những ý muốn tìm đến một cái gì đó để khỏa lấp nỗi khổ này, hoặc là phải không được khổ, hay tự cảm thấy thương hại bản thân hoặc những thứ tương tự như vậy… Nhưng dù suy nghĩ gì khởi lên, tôi cũng chỉ Nhìn một cách tò mò về những điều đó. Vì tôi biết nó chỉ là những biểu hiện khác nhau của tư tưởng – thứ mà tôi không tin tưởng nữa và đang tìm hiểu nó là gì, và rồi mọi thứ trôi đi, cứ thế, cứ thế…

Cảm giác Nhìn ấy nó chỉ diễn ra vài phút thôi nhưng những suy nghĩ, cảm xúc hiện lên liên hồi và trôi đi liên hồi để lại một trạng thái không thời gian, một khoảng không bao la khủng khiếp và một ý thức rõ ràng về mọi thứ đang hiện diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Và từ khoảnh khắc ấy cho đến các khoảnh khắc tiếp theo, mọi thứ trở nên nhẹ nhàng nhưng mãnh liệt vì cảm giác một luồng năng lượng rất sống động đang ngự trị, mọi thứ rõ ràng và bình an… Sự bình an này không phải là thứ đối lập với những đau khổ, mà nó như ở đó sẵn rồi, chỉ có đau khổ đến rồi đi chứ sự bình an này không liên hệ gì với đau khổ cả vì nó như đã ở đó từ bao giờ rồi vậy, tôi cảm nhận một cảm giác nguyên thủy thuần khiết trong trạng thái ấy.

Khi biết đến tính Không, rất nhiều thứ tôi phải xem xét, tra vấn lại trong bản thân mình. Tôi phải học cách nhìn lại mọi thứ, cách tôi tiếp xúc với mọi người như; tôi hôm qua giận bạn tôi vì nó lừa dối tôi, nhưng hôm nay nó đang đứng đây, đang đọc sách, tôi sẽ nhìn nó như thế nào? Tôi sẽ tiếp xúc với nó như thế nào đây? Tôi sẽ vẫn giận nó chứ, điều đấy có đúng không khi tôi mang quá khứ, định kiến của mình vào để giao tiếp với nó ở hiện tại? Hay tôi sẽ tiếp xúc với nó như bây giờ, vì hiện tại tôi không có gì giận nó, mà tôi còn đang rất vui nữa; mình đang suy nghĩ về bông hoa chứ không nhìn nó; mình đang tự ép mình phải nhìn; mình đang bám vào tính Không để sống; mình đang tạo ra lý tưởng về tính Không…

Đó là một trong những điều khiến cho tôi như đang được sống một lần nữa vậy, mọi thứ trở nên mới mẻ, rõ ràng, sáng tỏ và nhẹ nhàng – nhẹ nhàng khi tôi không mang quá khứ vào hiện tại nữa mà mọi cái nhìn của tôi đều ở hiện tại, đều nhìn vào tính không – sự biểu hiện của sự vật tại thời điểm hiện tại, chứ không phải là hình ảnh của quá khứ.

Một điều nữa là tính không mang lại một sự bình thản trước mọi biến cố cuộc đời, điều này dẫn đến việc nhiều người coi đây là sự vô cảm, thờ ơ. Trước tiên vì sao lại bình thản, bởi mọi thứ đều là sự kiện nếu bạn nhìn với con mắt trong sáng, không định kiến, phán xét, thì mọi thứ tác động lên bạn, bạn sẽ xem xét để đáp ứng lại tác động ấy theo sự nhận biết và quan sát của bạn chứ không cảm thấy vui buồn hay đau khổ hoặc hạnh phúc. Bạn đơn giản đáp ứng mọi điều ấy một cách nhiệt thành hoặc bạn né ra khi nó nguy hiểm, v.v… Nghĩa là khi ấy bạn rất tỉnh táo và sáng suốt, không để bất cứ một hoàn cảnh nào phá tan sự tỉnh táo và bình an ấy. Khi ấy trong bạn vẫn luôn tràn đầy sự dịu dàng, mát mẻ, bình an và tình yêu – không phải thứ tình yêu phức tạp nam nữ mà người ta hay gán cho từ ấy, mà thứ tình yêu của tình bằng hữu thân mật, của sự tự do, bình đẳng, vô tư. Và tôi tự hỏi những kẻ vô cảm có thể có những điều ấy không!

Chúng ta coi đó là sự vô cảm vì đa phần mọi người đều sống dựa vào cảm xúc, những cảm xúc này đều phụ thuộc vào tư tưởng của chúng ta như thế nào. Một người bình thản khi anh ta không chạy theo cảm xúc hay kìm nén nó mà ý thức trọn ven nó và để nó đến rồi đi, đó không phải là vô cảm, đó là sự tự tại, bình thản, an nhiên. Hãy nhìn cách tư tưởng vận hành: Khi đi học tư tưởng ta coi việc đỗ đại học là tuyệt vời nhất và khi ta đỗ đại học thì ta hạnh phúc lắm. Nhưng nếu ta nghĩ rằng nhiều tiền mới quan trọng thì đỗ đại học cũng chẳng làm ta quan tâm lắm mà ta chỉ muốn kiếm nhiều tiền thôi. Vì thế cảm xúc của ta đều phụ thuộc vào tư tưởng, mọi việc xảy đến đều mang tính không, nhưng ta đánh giá, cảm nhận sự kiện đó theo những gì tư tưởng ta đang có. Ta nghĩ cảm xúc là quan trọng nhưng chúng chỉ là biểu hiện bên ngoài của tư tưởng ta thôi, vấn đề nằm ở tư tưởng – thứ mà ta luôn bám vào để dựa vào nó ta sống, ta hành động, ta tương tác với thế giới.

Tiếp nữa chính điều ấy khiến ta sống vô cảm với thế giới, vì lúc đó ta chỉ quan tâm đến tư tưởng ta thôi – những gì ta cho là đúng, là đẹp, là ý nghĩa, là chân lý và ta muốn sống vì điều ấy, chỉ quan tâm đến những gì liên quan đến mọi điều đó, như tiền, thành công, giáo dục, y tế, văn thơ, tình dục, v.v… Khi ta chỉ quan tâm đến tư tưởng của mình thì ta không còn nhạy cảm với tiếng chim xung quanh, với bà lão già nua đang đứng giữa trời nắng 39 độ để bán hàng, với một con chuột nằm chết trên đường, với cánh hoa đang nở…

Và vì tư tưởng ta diễn giải mọi thứ ta nhìn, ta tiếp xúc theo ý hướng của nó. Nên dù ta có chú ý thì mọi thứ chỉ là sự phóng chiếu của tư tưởng chứ ta không thực sự tiếp xúc với những điều ấy. Trong khi một người nhận biết tính Không trong tư tưởng và trong cuộc sống bên ngoài thì họ luôn ý thức một cách rõ ràng những gì đang hiện diện mà không phán xét hay dán nhãn. trong sự ý thức ấy tuôn trào một nguồn năng lượng khiến cả thân thể và tâm trí tỉnh thức và nhạy cảm. Khi ấy anh ta không sống trong bất cứ một cái rãnh mòn nào của tư tưởng mà cuộc sống khi ấy không còn giới hạn nữa, anh ta đạt đến trạng thái cao nhất của tự do, của sáng tạo và bình an.

Tôi nghĩ đó là một điều rất đỗi giản dị mà phi thường mà một người có thể sống trong cuộc sống này. Hãy nhìn những gì tư tưởng tạo ra: tùy môi trường mà có những tư tưởng khác nhau, niềm tin khác nhau, định kiến khác nhau, phong tục khác nhau… nhưng trên hết sự khác nhau ấy dấy lên những mâu thuẫn và hận thù, ganh ghét, cùng với đó là giới hạn những tiềm năng của con người chúng ta.

Tính không cũng chẳng có gì cao siêu cả, nó chỉ là nó và mọi thứ cũng chỉ là chính chúng. Chỉ có tư tưởng luôn nhảy vồ vào mọi thứ mà đánh giá, phán xét để nói là nó vĩ đại hay nó tầm thường, rồi chúng ta trầm luân trong mạng lưới của tư tưởng mà không biết điều gì là thật, điều gì là ảo tưởng. Tôi hy vọng mọi điều được viết ra sẽ gợi mở cho mỗi người những câu hỏi, những trăn trở để từ đó ta có thể đi sâu hơn và làm sáng tỏ tâm trí của mình để sống một đời sáng suốt, tỉnh thức và bình an. Và đừng biến tính Không trở thành một thứ gì đó để bạn bám vào, để tư tưởng lại tiếp tục vận động và tạo ra những lý tưởng, những phán xét, những lối mòn rồi từ đó bạn sống, hành động… Hãy tự do và đừng bám vào bất cứ điều gì cả.

Điều cuối tôi muốn nói rằng hãy bước ra cái ngục tù và ảo tưởng của tư tưởng và sáng tạo cuộc sống mà bạn muốn, chừng nào bạn còn nằm trong đó, bạn vẫn chỉ như con bướm trong cái kén mà thôi. Và hãy nhớ nếu muốn bước ra khỏi nó, chỉ cần hiểu nó thôi, bạn sẽ thấy mình ở bên ngoài nó rồi.

Tác giả: Phạm Đức Hậu

*Featured Image: Sadie Pices

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Thay đổi hay bất tử?

1

Có bao giờ bạn quyết chiến đấu, quyết chống chọi vì lý tưởng của bạn chưa? Có bao giờ bạn bị dòng đời xô đẩy cho bạn ngã sõng soài và bạn đứng lên tiếp tục dù cho có sứt đầu mẻ trán? Hay bạn luồn cúi, bạn ăn gian, thoả hiệp và tự nói với bản thân: Mình đã cố gắng hết sức nhưng cuộc đời không cho phép. Bạn thay đổi, thuận theo sự khắc nghiệt của cuộc đời.

Nếu bạn tôn thờ sự thay đổi, bạn cho rằng nó là cần thiết và mình phải biến đổi làm sao cho hợp với cuộc đời cho phép. Lý tưởng của bạn chỉ dừng đến mức đấy thôi, luôn thoả hiệp và cầu toàn. Khi điều ấy khó khăn quá mức bạn lại tiếp tục thay đổi, lựa chọn những điều dễ dàng hơn. Còn khi bạn có những khát vọng lớn lao thì dòng đời có chảy siết bao bạn vẫn như những cái cây sừng sững vững trụ với lý tưởng của mình dù thành công hay thất bại.

Đừng có cái gì cũng quy về sự thay đổi và đánh đồng chúng với sự phát triển, có những thứ chỉ là các lĩnh vực khác nhau và chúng đồng đều với nhau. Ví dụ như bạn đi học vẽ nhưng bạn bỏ và đi học maketing. Đó là do bạn không vững chắc với lý tưởng của mình, bạn muốn xuôi dòng theo cuộc sống dễ dàng hơn theo bạn nghĩ và việc đó chỉ đơn giản là nhảy từ bên này sang bên kia.

Bạn có thấy những người khát khao sống với con đường mình chọn và đến lúc chết họ vẫn sống mãi trong trái tim mỗi người không? Bởi vì họ chỉ có duy nhất một lý tưởng cao đẹp đối với họ. Đáng lẽ ở phần này tôi sẽ không nêu ra các ví dụ về những con người cả đời sống với mục tiêu duy nhất vì tôi cho rằng phần này là thừa thãi bởi dù nêu ra cái tên nào thì nó cũng chỉ là cái tên thôi và chắc rằng bạn có đủ kiến thức để biết về những người vĩ đại trên thế giới này. Nhưng bạn có biết Scorates không? Ông ấy bị cả xã hội hắt hủi và sống lang bạt như một tên ăn mày. Nếu ông ấy thay đổi, trở thành người bình thường và sống tốt hơn rồi chết? Hay ông trường tồn với lý tưởng của mình và sống mãi đến tận bây giờ và cả mai sau?

Tôi ghét sự thay đổi của mỗi con người, thời gian làm họ mai một đi và họ đổ lỗi cho sự thay đổi rằng cuộc đời đã dẫn dắt họ trở thành như thế. Họ chẳng bao giờ tự nhận rằng vì họ không thể ôm ấp mãi lý tưởng của họ để rồi nghèo nàn. Họ phải thay đổi để thuận với cuộc chơi tàn khốc.

Tôi có một người anh, người tôi rất kính nể và lấy anh như một chuẩn mực về cuộc sống. Anh chọn sống trên một ngọn đồi, ngày ngày anh chăm chỉ nấu cơm, đi chợ, tắm rửa, chăm sóc bản thân và mọi người xung quanh, anh đọc sách và chơi đàn, tiến sâu vào tìm hiểu giá trị cuộc sống, luôn đề lên cao tầng. Đùng một cái anh bỏ hết để đến một thành phố lớn và trở thành một con người mới, anh lao đầu vào kiếm tiền. Tôi nhận được tin ấy, sững người, đấy là sự thay đổi đúng không?

Sự thay đổi diễn ra khi người ta chênh vênh, sợ hãi hoặc chán nản điều cũ. Có những người bạn sau 2 năm gặp lại tôi nhận không ra và có những người 10 năm vẫn như cũ. Như cũ không có nghĩa là dậm chân tại chỗ, như cũ là họ vẫn là con người của 10 năm trước, vẫn ước mơ và khao khát những điều của 10 năm trước và họ vẫn vững bước trên con đường của mình cùng những thành công nhất định. Đó là phát triển và không thay đổi.

Tôi biết 1 người con gái đã xấp xỉ 30 xuân nhưng cô ấy mãi như tuổi 20. Lê Cát Trọng Lý, vẫn là cô gái hát ở nhà thờ, hát thiện nguyện khắp nơi và gieo rắc âm nhạc đến mọi tâm hồn. Thời điểm ban đầu chẳng ai biết cô nhưng cô chứ ôm ấp mãi giấc mơ ấy, thiếu gì cơ hội thay đổi chạy theo showbiz nhưng con người ấy là như vậy, là trường tồn mãi theo thời gian, là đeo đuổi lý tưởng dù bao gian nan sóng gió. Cho tôi hỏi Lê Cát Trọng Lý có thay đổi gu nhạc hay hình hài con người cô ấy? Có thay đổi trang phục đẹp đẽ hợp thời hơn? Và cô ấy có phát triển không? Hay đang thụt lùi?

Tôi đã từng thay đổi, từng cố gắng trở thành một con người khác, từng muốn mình trông nữ tính hơn, sành điệu hơn và sống giống mọi người hơn. Nhưng tôi sinh ra là dành cho sự cằn cỗi, là mộc mạc. Sau bao cố gắng thay đổi tôi vẫn lại trở về là tôi. Tôi vui và hạnh phúc vì điều đó. Tôi chọn các sống như chính những gì mình có và phát triển nó chứ chẳng cần thay đổi hay đua đòi theo người khác.

Vì sao tôi khắt khe về việc thay đổi điều gì từ chính con người mình? Là khi tôi đọc xong cuốn Suối Nguồn, cuốn sách củng cố lý tưởng sống của cuộc đời tôi và cũng là cuốn sách tôi tâm đắc nhất cuộc đời đọc sách của tôi đến giờ. Trước đó tôi không hề định hình được mình đang sống như thế nào, tôi cũng chênh vênh và thay đổi rất nhiều lần. Nhưng sau khi đọc và biết về anh chàng Howard Road cùng lý tưởng một mình thay đổi cả nền kiến trúc của anh và tôi rất tâm đắc một đoạn thoại của Peter Keating – nhân vật đối đầu của Howard Road trong truyện:

“… Em biết đó, mọi người đều mong được bất tử. Nhưng họ chết đi cùng với mỗi ngày trôi qua. Khi em gặp họ, họ không còn giống như lần em gặp trước đó. Với mỗi giờ trôi qua, họ lại giết đi một phần trong chính mình. Họ thay đổi, họ bác bỏ, họ mâu thuẫn – và họ gọi đó là trưởng thành. Và cuối cùng sẽ chẳng còn lại gì cả, chẳng còn gì chưa từng bị đảo ngược hay chưa bị phản bội, như thể chưa từng tồn tại một thực thể mà chỉ là một dãy các tính từ nối tiếp nhau hiện lên rồi mờ đi trên một mớ vật chất hỗn độn. Làm sao họ có thể mong đợi một sự vĩnh cửu khi họ chưa bao giờ giữ nguyên một cái gì dù chỉ trong khoảnh khắc?…”

Những dòng này tôi thuộc lòng từng chữ, chúng ngắn ngủi thế thôi nhưng cả một bài viết dài lê thê của tôi cũng chưa chắc sâu sắc bằng.

Khoan bàn đến sự thay đổi về sinh học, tiến hoá, xã hội vì với tôi chúng là một mớ hỗn độn vô tổ chức và chỉ là điều bổ sung cho cơ thể, tâm hồn của một con người. Chúng chỉ là tác nhân và là sự phiền nhiễu luôn thích thiên biến vạn hoá ra cả tá những điều vớ vẩn. Với tôi con người phải là giống loài bất biến, là trụ vững với lý tưởng của mình chứ không phải là thứ đem ra đánh đồng với xã hội – mớ bòng bong lộn xộn. Vì những người bất biến luôn là người biết quan sát thực tại, biết mình là ai và mình cần phải làm gì, làm chủ được cơ thể và tâm hồn mình.

Tôi đã từng rất xấu hổ về cách sống, gu âm nhạc, phong cách thời trang của mình, tôi từng thay đổi nhưng đã thất bại. Gọi là thất bại nhưng đối với tôi đó là thành công, thành công rằng tôi đi một đường vòng như cậu bé Santiago trong Nhà Giả Kim và tìm thấy chính mình. Nhưng có những điều tôi thật sự thất bại khi tôi cố gắng thay đổi. Tôi không biết đam mê thực sự của mình, từ một sinh viên Đại học ngành Công nghệ sinh học năm 2 tôi bỏ học vì muốn thay đổi cuộc sống sinh viên nhàm chán. Sau đó tôi muốn kiếm gì để buôn bán kiếm thêm trước khi bắt đầu một sự nghiệp chính thức thì lại bị chùn bước chán nản. Tôi đăng ký học lại cao đẳng và lại bỏ học ngay sau năm đầu tiên. Những điều ấy là sự thay đổi và một chuỗi những thất bại sau đó tôi vẫn lẩn quẩn với những dự định tiếp theo.

Họ bào chữa rằng thay đổi để có kinh nghiệm và kiến thức về nhiều lĩnh vực. Nhưng mò mẫm trong bóng tối kiếm tìm mọi thứ có tốt hơn một người đã có chính kiến và ước mơ để đeo đuổi không?

Vì thế quan điểm của tôi là “Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.” Và một con người thay đổi bất kỳ lý tưởng gì của họ thì đó điều là do họ yếu đuối, họ thất bại sau đó họ đổ lỗi cho cuộc đời vận hành như vậy, nên họ cũng phải như vậy, họ luôn luôn là như vậy. Thế nên khi chết đi họ cũng mờ nhạt dần theo năm tháng và chẳng để lại chút gì trên đời. Và chỉ có một số ít người sống trường tồn theo thời gian, những vĩ nhân không thay đổi lý tưởng của mình cho đến khi kết thúc cuộc đời sinh lý. Vậy bạn chọn thay đổi hay bất tử?

Tác giả: Bà Năm

*Featured Image: Printeboek

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Khi bạn cô độc, đừng sợ cô đơn

0

Bạn tôi: Tại sao cậu luôn muốn cô độc, cậu không sợ cô đơn?

Tôi: Cô độc không phải mẹ của cô đơn. Ở một mình cũng là một thành tựu lớn của con người. Cậu cứ nói như thể nó là bi kịch.

Bạn tôi: Hầu hết mọi người đều cảm thấy cô đơn khi ở một mình. Và cô đơn là một cảm giác đáng sợ, nó có thể giết chết cậu từ từ.

Tôi: Cô đơn chỉ là mặt tiêu cực của một mình. Nhưng nếu cậu đi sâu vào bên trong, đến một khoảnh khắc nhất định, bỗng nhiên ánh sáng sẽ được thắp lên bằng tất cả sự tiêu cực, chuyển hóa thành nguồn năng lượng tích cực. Bao giờ một sự thể cũng tồn tại hai mặt và chỉ khi chạm đến giới hạn, cậu mới đủ thông thái và minh mẫn để nhìn ra mặt trái còn lại.

Bạn tôi: Tớ rất sợ cô đơn. Vậy nên tớ luôn nghĩ đến người khác. Cảm giác nếu có một ai đó ở bên cạnh có lẽ mọi sự sẽ tốt hơn.

Tôi: Nhưng nếu chẳng có ai ở đó cùng cậu? Cậu sẽ luôn cảm thấy trống rỗng. Mọi thứ vô định và cậu mất định hướng vì không còn ai.

Bạn tôi: Tớ sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Tớ thường thỏa lấp chúng bằng những cuộc hẹn hò. Tớ trở thành một phần của những nhóm bạn, của các tổ chức. Tớ tham gia những hoạt động cộng đồng.

Tôi: Đó chỉ là sự chạy trốn. Tìm một sự tạm thời để vùi lấp đi nỗi cô đơn. Cậu chỉ mang một trái tim trống rỗng đi lao vào những khoảng không trống rỗng khác. Cậu chỉ đang cố lấp đầy những điều mình không biết bằng những điều đã biết. Nhưng cậu có lấp đầy được nỗi cô đơn hay chỉ khuất lấp tạm thời? Nỗi cô đơn vẫn còn đó và nó vẫn có thể quấy động lại cậu bất kỳ lúc nào. Nếu cậu có thể chạy trốn nỗi cô đơn một cách toàn triệt thì lúc đó cậu đã không còn là con người. Đó là hiện trạng của toàn thể xã hội này. Nhìn xem thế giới đã phát minh ra hàng trăm nghìn quả bom khổng lồ có khả năng nổ tung nỗi cô đơn trong cậu. Đó chính là những đám đông. Họ đông vô số kể và cậu có thể là một phần trong họ bất kể lúc nào.

Bạn tôi: Nếu không thế thì phải làm sao?

Tôi: Đó chính là lý do tớ chọn việc một mình. Một mình là sự hiện diện của bản thân cậu ở đó. Tớ nghĩ chỉ có những người có khả năng ở một mình thì mới có khả năng ở với người khác. Cứ nghĩ xem ngay chính bản thân mình mà cậu còn không thể sống cùng thì làm sao sự ích kỷ trong cậu cho phép người khác sẻ chia cuộc sống cùng cậu. Chỉ khi có khả năng ở một mình thì khi đó cậu mới có khả năng yêu thương người khác. Cậu không còn quá nhiều ham muốn từ mọi thứ xung quanh, mãn nguyện với hiện tại đang đứng. Hài lòng và tràn đầy tình yêu mà không cần sự bố thí từ người khác.

Bạn tôi: Cậu nghĩ mình có thể rót đầy vũ trụ này mà không cần thêm bất kỳ một ai khác?

Tôi: Chính xác. Lúc đó tớ là vua, là hoàng hậu, là hoàng tử, là công chúa, là binh lính, là thường dân. Tớ sống trong vương quốc của tớ, là tất cả sinh khí của một vương quốc. Tớ sử dụng phép thuật của mình và khiến cho cả một thế giới biến mất. Nếu cậu biết rằng chỉ bản thân mình là đủ để lấp đầy tất cả vũ trụ, cậu sẽ không còn cảm thấy trống rỗng mênh mông, không còn nhu cầu về bất kỳ ai, không còn phải phụ thuộc, dù là công dân nước nào,  thuộc tôn giáo nào, bạn bè người thân cậu có bao nhiêu… tất cả đều không còn quan trọng.

Bạn tôi: Cậu muốn tớ quay lưng chối bỏ tất cả các mối quan hệ, chối bỏ mọi văn minh, chối bỏ tất cả con đường dẫn lối tớ chạy trốn, chối bỏ tên tuổi mình…

Tôi: Cậu phải đơn giản là chỉ đang hiện hữu. Chỉ có cậu. Chúng ta luôn bị uốn cong và dồn dập bởi sự hiện diện của những người xung quanh. Con người cũng như thân cây vậy, càng muốn vươn đến những miền cao thẳm thì càng phải bám rễ chặt sâu vào lòng đất, vào bóng tối sâu thẳm. Nơi đâu là miền sâu thẳm nhất của con người, đó chính là tận sâu bên trong cậu. Bám chặt vào cái hiện thể bên trong chứ không phải là soi cái nhìn ra bên ngoài. Cơn gió có mạnh đến đâu cũng chẳng bao giờ quật ngã được những cây bám chặt gốc rễ vào lòng đất. Không những thế, đó còn phải là một cái cây đơn độc lẻ loi, vượt bỏ tất cả loài người đang đứng lố nhố xung quanh. Làm sao để khi cậu lên tiếng, cũng chẳng cần ai phải thấu hiểu. Hãy khát khao sự rơi ngã sa đọa của mình trong nỗi cô độc để không phải nghe tiếng than khóc của nỗi cô đơn. Hãy biến sự xuất hiện của thế giới xung quanh không còn là gì trong mắt cậu. Chính sự cô độc đã giết chết tất cả họ rồi.

Bạn tôi: Nếu tớ cô độc, tớ nghĩ đôi cánh tinh thần của mình sẽ bị gãy tan. Tâm hồn tớ tràn đầy kinh hoàng sợ sệt.

Tôi: Lòng cậu có thể tả tơi vì sự cô độc nhưng nếu không thế thì những lời nói, đôi mắt của những người đang đứng bên cạnh cậu, sẽ còn bộc lộ rõ nhiều hơn những nhiêu khê hiểm trở mà cậu sắp phải đương qua. Bao giờ cậu còn chưa cô độc thì cậu chưa thể được tự do tự tại. Con quỷ trong cậu vẫn còn cơ hội thoát trần chạy rong, chúng sẽ còn kêu gào cười cợt trong tiếng hân hoan mừng rỡ. Tinh thần cậu sẽ chẳng bao giờ được giải thoát khỏi những ngục tù. Nếu cậu chưa thể sống cô độc, cậu mãi mãi là một tù nhân đang tưởng tượng đến tự do. Cậu cần phải giải phóng tinh thần mình, phải giải thoát tâm hồn  mình khỏi những mốc meo, khiến nó trở nên tinh khiết hơn.

Bạn tôi: Tớ nghĩ sự cô độc chỉ dành cho những kẻ mắc bệnh tự kỷ, những tên điên khùng…

Tôi: Dù cho cả thế giới đang thù ghét và ném vào cậu những cái nhìn ác cảm. Cũng có khi cậu biến thành tảng đá chướng ngại trên đường của người khác, nhưng dù họ có phỉ báng cậu, điều đó cũng chưa bao giờ đủ để cậu liều lĩnh đánh mất đi cơ hội được giải thoát. Khi cậu cô độc, cậu sẽ luôn cảm nhận được sự cao nhã quý phái trong chính mình. Bởi lúc đó cậu  mới là chính cậu.

Tác giả: Ni Chi

Featured image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

[THĐP Translation™] Tại sao Shiva uống rượu và hút cần sa?

0

4

d5cdca2f5fc50670ae06077cd0ff654c

lord_shiva___wallpaper_by_ramawat-d6wsodx
Art: Molee

Trong vô số những bức tranh tôn giáo của Hinduism một người có thể dễ dàng tìm thấy những bức ảnh vẽ Đấng Shiva (tiếng Anh gọi là Lord Shiva), Thượng đế của Hinduism, đang hút cần, và uống rượu. Ở Ấn Độ có một ngôi đền tên là Kaal Bhairav nơi Shiva được cho uống rượu mỗi ngày. Miệng của Shiva được tạo ra từ một cái lỗ được khoét trên pho tượng, và có người sẽ cầm một chén rượu và đổ nhẹ vào miệng như một nghi thức dâng cúng.

Screenshot_2018-07-14 Kaal Bhairav Drinking Alcohol Kaal Bhairav Temple Ujjain Live Video - YouTube

enhanced-buzz-5016-1393525580-18
Navesh Chitrakar / Reuters

Mỗi năm vào dịp Shivaratri, lễ hội dành cho Shiva, các tín hữu sẽ hút cần trước khi cầu nguyện. Tại sao Đấng Shiva lại được vẽ, mô tả như một người uống rượu và một người hút cần? Câu hỏi này rất khó hiểu đối với một người bình thường, những người cho rằng thần thánh thì không nên làm những chuyện xấu xa như vậy. Để hiểu được chuyện này, hãy trở về quá khứ nhiều nghìn năm trước, khi con người vẫn còn sơ khai primitive.

Chúng ta có khoảng 400,000 chủng loại thực vật. Làm thế nào để biết được loại nào ăn được, loại nào là thuốc độc? Loại nào gây bệnh, loại nào chữa bệnh? Hệ thống y học cổ đại của Ấn Độ, được gọi là Siddha medicine, đã ghi nhận được hơn 100,000 loại cây và dược tính của chúng. Những thông tin này đã được ghi nhận như thế nào?

203c774593e0d1b082801113r

Những thông tin y học này chính xác đến nỗi ngày nay nó đã được áp dụng vào y học hiện đại.  Ví dụ như, vào năm 2000 một loại thuốc có tên gọi Virohep đã được đưa ra thị trường với công dụng trị bệnh Viêm Gan B. Những người sản xuất ra loại thuốc này đã công khai tuyên bố rằng thuốc được bào chế từ một loại cây có tên khoa học là Keezhanelli herb (Phylanthus niruri) và họ biết được thông tin này từ kinh sách cổ. Thuốc đã có bán tại khắp nơi trên thế giới và đã được nhiều bác sĩ công nhận hiệu quả.

keelanelli_1_14060
Keezhanelli herb (Phylanthus niruri)

Trở lại với câu hỏi những thông tin này đã được ghi nhận như thế nào ít nhất 2000 năm trước? Căn cứ theo truyền thống y học Siddha medicine, Shiva đến từ một hành tinh có tên Shivalokha, và bắt đầu thí nghiệm và nghiên cứu mọi loài cây trên trái đất. Những kết quả và kỹ thuật nghiên cứu sau đó được truyền lại cho 18 vị thánh ghi chép lại.

Dĩ nhiên, các nhà sử học và chuyên gia sẽ bảo rằng chuyện này là vô lý, và lý do những người Ấn Độ cổ đại đã biết được tính chất của thực vật nhờ phương pháp trial and error, thử đi thử lại, hoặc chỉ do tình cờ. Nhưng đã có những bằng chứng vững chắc cho thấy người Ấn cổ đã thực hiện thí nghiệm trên cây cối cũng giống như các nhà khoa học hiện đại.

Screenshot_2018-07-14 Why Does Lord Shiva Smoke Weed and Drink Alcohol - YouTube(1)

Tại một ngôi đền cổ mang tên Hoysaleswara, chúng ta có thể thấy một phiến đá tạc kì lạ. Nó mô tả một loại thức uống có cồn, gọi là toddy (rượu dừa), đang được chiết xuất từ những cây dừa, và được đựng trong một bình chứa dưới đất. Nhưng có một chi tiết phi thường ở đây, có một vị thánh đang quan sát hai con vật: một con chim và một con rắn đang uống thứ rượu này từ bình. Ông đang thử nghiệm ảnh hưởng của cồn trên động vật, trước khi sử dụng nó lên con người. Điều này hoàn toàn giống với cách làm của khoa học ngày nay, họ thử nó trên động vật trước khi cho con người sử dụng.

Screenshot_2018-07-14 Why Does Lord Shiva Smoke Weed and Drink Alcohol - YouTube

Ngay bên cạnh đó, có một người nam đang cầm một bình chứa đầy rượu dừa đưa cho một người nữ, và rõ ràng là người nữ này đang từ chối, hãy nhìn tay cô ấy. Nhưng tại sao họ lại làm ra rượu? Uống rượu không phải là một hành động xấu xa sao? Thậm chí tại sao những chuyện này lại được khắc tạc trong ngôi đền? Y học cổ truyền Ấn Độ giải thích rằng rượu và những chất gây say khác là tuyệt đối cần thiết để thực hiện phẫu thuật.

Ví dụ đơn giản như chuyện nhổ răng. Làm sao chúng ta có thể thực hiện được nếu không gây mê đối tượng? Có thể tìm thấy trong kinh sách cổ những ghi chép giải thích những ca phẫu thuật phức tạp như mổ mắt, cắt bỏ tay chân, và thậm chí phẫu thuật thẩm mỹ.

susrutha

Nhưng còn về cần sa thì sao? Tại sao Shiva lại hút cần? Ngày nay cần sa được xem như một loại drug, nhưng nó đã từng được xem là một loài thực vật thiêng liêng tại Ấn Độ. Đấng Shiva, cha đẻ ra ngành y học Siddha medicine là người đầu tiên thử nghiệm cần sa lên động vật, và lên chính mình, trước khi cho những người khác biết.

Với tên gọi thông dụng ở Ấn Độ là Ganja, hay Bhang, nó được sử dụng để giảm căng thẳng và đau nhức từ năm 2000 trước công nguyên, có nghĩa là hơn 4000 năm trước. Các truyền thống Ấn Độ khuyên sử dụng cần sa mỗi năm một lần để giữ gìn sức khỏe tinh thần và thể chất. Đây là lý do vì sao cần sa lại được hút tại Ấn Độ và Nepal bởi các tín hữu vào lễ hội Shiva. Dược tính của cần sa đã được ghi nhận chi tiết trong văn bản cổ. Nó trị được chóng mặt, kén ăn, căng cơ, và nhiều căn bệnh khác.

images (4)

Có một giáo phái gọi là Aghoris, những người này dành cả đời hướng về Shiva. Họ hút cần mỗi tuần và cho rằng nó giúp cho não bộ của họ nhạy bén. Một nghiên cứu gần đây tại Hoa Kỳ cho thấy THC, một trong những phân tử chính trong cần sa, có thể ngăn ngừa và điều trị căn bệnh Alzheimer (suy giảm trí nhớ) và có thể giữ cho não bộ được sắc bén.

Chúng ta có thể thấy một xu hướng thú vị đang xuất hiện ở các nước phương Tây. Những người đã từng chỉ trích lên án nhạo báng việc sử dụng cần sa của người Hindu, gọi nó là hủ tục đang bắt đầu chuyển sang ủng hộ cần sa y tế. Hiện nay đã có hơn 30 tiểu bang Hoa Kỳ và 15 quốc gia hợp pháp hóa cần sa.

Marijuana_Map

aroundtheworld2-1024x538

1-Black-Marble-Shiva-Drinking-Poison-Statue

Bây giờ thì bạn đã biết tại sao có những bức tranh vẽ Shiva hút cần và uống rượu. Không có gì là xấu miễn là bạn biết sử dụng đúng cách, cũng như tất cả công cụ khác. Nếu bạn sử dụng một cây tua vít để đâm vào mắt mình thì đừng đổ lỗi cho cây tua vít.

329A33C000000578-0-image-m-36_1459110332376


Tác giả: Praveen Mohan
Dịch: In Ra
Review: Triết Học Đường Phố

📌 Ủng hộ dịch giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Tản mạn kỳ thi đại học

0

Lại một kỳ thi đại học, ngày mai các sĩ tử sẽ thi môn đầu tiên. Trong cái tiết nóng bức tháng bảy, quả là một sự gian khó đối với họ. Hôm nay đi làm thủ tục cho các thí sinh, nhìn thấy các em lớn hơn, khôn hơn, mạnh dạn hơn mà thấy mừng.

Buổi chiều, một đồng nghiệp nói: “Thí sinh bây giờ bạo dạn quá anh ạ, chẳng giống mình ngày xưa, vào phòng thi nhìn thấy giám thị rất sợ, cứ mơ ước được bước chân vào giảng đường đại học và được một lần làm giám thị.” Br đáp: “Như thế là tốt mà em, chứng tỏ xã hội ngày càng phát triển, học sinh bây giờ trưởng thành hơn các thế hệ chúng ta”.

Miệng nói vậy nhưng trong lòng chợt thấy thiêu thiếu một cái gì đấy, rất mơ hồ, rất khó tả nhưng rất thật.

Ngày xưa, những thí sinh ở quê xa, đi thi đại học vất vả lắm. Vất vả từ việc đi lại, ăn ở ngủ nghỉ, đến việc thiếu hụt kiến thức. Sách vở hồi ấy ít quá, các trường lại tự ra đề nên lúc nào cũng ở trạng thái nơp nớp lo, vì không biết đề ra kiểu gì, dạng này mình đã được học chưa,… Đề thường có câu 5.b. rất khó, dành cho thí sinh nào thực sự giỏi mới làm được.

Bây giờ, đề có sẵn, đáp án có sẵn, thí sinh chỉ cần nhớ chứ không cần tư duy, suy luận. Tiêu chí ra đề là học lực khá sẽ làm bài được. Thế nên chẳng biết là mừng hay vui, khóc hay cười.

Nhìn thấy lớp trẻ bây giờ thiếu nhiều quá: Thiếu tư duy sáng tạo trong học tập; thiếu sự tìm tòi khám phá điều khó, điều mới; thiếu các kiến thức về lịch sử, xã hội; và nguy hiểm nhất là không có thói quen đọc sách.

Nhìn cách hành văn của các em mà buồn, vì nó khô khốc và vô cảm. Lịch sử, văn học có trong đầu các em ít quá. Giáo dục bây giờ chỉ chạy theo thành tích, mục tiêu đi học chỉ cần đậu đại học, còn việc hoàn thiện tri thức hầu như không được quan tâm.

Ngày trước, trừ các trường chuyên tỉnh có tỷ lệ đỗ đại học còn cao. Còn trường cấp 3 ở huyện chỉ được một vài người, năm nào nhiều cũng chỉ dăm bảy người. Chính thế mà cái từ “đại học” cao lắm, xa lắm, mơ ước lắm. Có câu vè của tử sĩ: Cổng trường đại học cao vời vợi. Mười chú trèo lên chín chú rơi.

Bây giờ nhà nào cũng có con đi học đại học, các trường THPT có hàng trăm học sinh đỗ đại học mỗi năm. Không đỗ chính qui tại các trường có tiếng thì vào học dân lập, kiểu gì chả là sinh viên. Nhớ năm ngoái, có thí sinh thi được 8 điểm/3 môn cũng có giấy gọi trúng tuyển vào đại học. Thương thay!

18 năm trước, tại cổng trường THCS Nguyễn Trãi trên đường Khương Trung, một thằng bé nhà quê lũn cũn bước vào. Bảo vệ đuổi ra và nói: “Đi về, đi về, nghỉ hè còn đến trường làm gì. Không thấy người ta tổ chức thi đại học à, ai cho vào trường mà vào.”

Phải định thần mấy phút, thằng bé mới biết nguyên nhân người ta không cho vào, và cũng phải suy nghĩ mấy phút, thằng bé mới lập cập mở cái cặp rách mép lấy giấy báo thi, hai tay run run đưa cho bảo vệ: “Thưa chú….thưa….cháu đi thi ạ.”

Mấy người bảo vệ tròn xoe mắt, đọc đi đọc lại cái giấy báo thi và nhìn khuôn mặt non choẹt của thằng bé trước khi cho vào. Nó còn nghe câu nói với theo “Con cái nhà ai bé tý thế mà đã đi thi đại học nhỉ.”

Chắc mấy người bảo vệ nghĩ thằng bé là học sinh cấp 2. Mà họ nghĩ thế cũng phải. Khi vào đại học, đi khám sức khoẻ, con số hiện trên bàn cân là 38,5 kg.

Hôm nay, tại một phòng thi đại học, sau khi làm các thủ tục, phổ biến qui định, nội qui, kết thúc bằng câu nói quen thuộc: “Thay mặt Hiệu trưởng nhà trường, Chủ tịch hội đồng tuyển sinh, tôi nhiệt liệt chào mừng các em đã đăng ký tham dự kỳ thi đại học. Chúc các em bình tĩnh, tự tin, làm bài tốt và trở thành sinh viên của trường…”

Sau một loạt vỗ tay, chút hoài niệm của 18 năm trước dội về. Thằng bé thấy cay cay nơi khoé mắt!

Tác giả: Baron Trịnh

*Featured Image: congerdesign

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Tôi yêu Sài Gòn nhưng tôi chọn cách hy sinh tình yêu ấy

2

Tôi an toàn khi ở Sài Gòn, tôi có gia đình, bạn bè và những người thân thương nhất. Nhưng tôi không thể cứ đứng nhìn Sài Gòn tệ dần và chính tôi cũng tệ dần theo nó.

Tôi nhớ những ngày Sài Gòn bình yên khi tôi được bà nội chở đến trường bằng chiếc xe đạp martin cũ rích, đường phố không đông đúc, vẫn còn những chú bán kem dạo, trò Chiếc nón kì diệu của chú kẹo kéo và với tôi trong kí ức Sài Gòn thật trong lành, đẹp đẽ. Hồi ấy Sài Gòn cũng không nóng như bây giờ.

Là một người gốc Bắc tôi lại thích tự nhận mình là người Sài Gòn. Tôi yêu Sài Gòn, tôi yêu đến độ thuộc từng con đường hẻm hóc nhất của Sài Gòn. Tôi tự hào khi được trở thành cái bản đồ di động của tất cả những người bạn đi cùng. Tôi yêu Sài Gòn rõ ràng nhất định nên dù có để tôi ở con đường nào tôi cũng không thể lạc lối như bất kỳ thứ tình yêu mù quáng nào khác.

Nhưng yêu là không đủ, tôi đã từng chọn rất nhiều cách để yêu Sài Gòn. Đi tình nguyện, thu gom ve chai và rác thải, cho đến một ngày tôi nhận ra rằng tình yêu của tôi có lớn nhường nào đối với Sài Gòn đó chỉ là một điều vớ vẩn. Tôi chọn cách ra đi và tôi gọi đó là hy sinh chứ không phải buông bỏ.

Tôi hy sinh việc được ở cạnh gia đình, họ hàng, bạn bè mình. Có người nói tôi là ích kỷ, tôi chỉ nghĩ cho bản thân mà không biết lo toan cho người khác. Nhưng tôi đi không phải vì muốn trốn tránh trách nhiệm của mình mà vì tôi muốn bớt phần nào gánh nặng cho Sài Gòn, tôi đi vì tôi không muốn nhìn thành phố mình lớn lên bị tha hoá, tôi đi vì bất lực kêu gào bảo vệ môi trường và tham gia các chiến dịch mùa hè xanh, hoa phượng đỏ nhưng khi tôi diễu hành trên đường phố với băng rôn và bảng hiệu họ nhìn với ánh mắt khinh bỉ. Và đến đây tôi biết rằng tôi thật sự buông bỏ vì tình yêu của mình chứ không phải là sự hy sinh nào cả.

Tôi không thể nhìn nổi thành phố tôi yêu thương mỗi năm lại có hàng triệu sinh viên đổ xô đến học đại học 4 năm trời rồi cứ bám càng ở đấy không chịu về phát triển ở quê nhà. Chưa tính hàng nghìn người chật kín ở các bến xe mỗi ngày và không thể đếm nổi con số xin việc làm lương 3 triệu/tháng không có cơ hội thăng cấp. Sổ hộ khẩu nhà tôi phải đến 4 người nhập ké, chứ trên thực tế cũng không phải trong gia đình. Có lần tôi vào bệnh viện Chợ Rẫy thăm một người bạn nhìn người nằm la liệt mà không thể không cảm thấy nhợn người.

Họ nói Sài Gòn phồn hoa, tráng lệ, họ đến họ chấp nhận công việc lương 2-3 triệu để có cái danh là ở Sài Gòn. Trong khi đồng lương ấy còn không bằng những người dưới quê làm ruộng vậy nhưng họ cứ vẫn mù quáng với đồng tiền, với vật chất xa hoa. Họ biến Sài Gòn thành một nồi cám heo với đầy những độc hại chết người, họ sống chung với rác thải và sự nhơ nhớp bên trong chính họ. Lừa đảo, cướp bóc, chiêu trò, hại người chỉ để được trụ lại ở cái xứ sở này. Họ ngồi máy lạnh phà phà sướng thân rồi thải cái nhiệt ấy ra không khí mặc kệ nhiệt độ cứ nóng dần lên. Họ ỳ ạch nhích từng chút một mỗi lúc kẹt xe. Họ kêu gào, chửi bới, phóng lên lề đường mặc kệ người khác. Đến nỗi hầu như lề đường nát bét và cũng chẳng ai rỗi hơi mà sửa lại. Mùa nắng họ trùm kín bao bọc thân thể mặc kệ có nhìn thấy đường hay không, mùa mưa ngập lụt tràn lan thì họ bơi trong đấy mặc kệ cả thế giới miễn sao đi được là họ đi. Thấy ai chửi nhà nước là họ chửi. Họ chửi sao không làm đường, làm cống mà để ngập lụt. Họ chửi sao không mở đường mà để kẹt xe trong khi đèn đỏ còn 5 giây họ bấm còi inh ỏi. Họ chửi bà bán bánh mì, chửi trời, chửi đất, về nhà với tâm trạng cáu gắt họ chửi vợ, chửi con. Khắp mọi nơi tràn ngập năng lượng tiêu cực.

Những điều họ nghĩ đến chỉ có tiền và bộ cánh lộng lẫy. Làm sao để cho không bị lỗi thời, làm sao phải thật sành điệu. Uống rượu phải gọi như thế nào mới chất? Phải biết đi bar pub, hút bóng cười, cần sa… Phải biết nhảy, phải mặc đồ hàng hiệu để còn ra vẻ với người khác. Đối với họ giá trị là những gì họ đắp lên người chứ không phải những gì được tích luỹ trong đầu. Tôi chán gấy khi gặp những người quần áo hàng hiệu chỉ toàn chém gió chuyện phiếm: “Ôi nhỏ này nhìn kém sang quá. Thằng kia mang giày fake kìa.” Để rồi những câu chuyện chẳng đem lại tích sự gì, nói xong đến lúc tính tiền ly cà phê 150.000đ. Lạm phát cứ tăng dần, dân xứ tứ đổ về ở trong những căn phòng chỉ đúng 3 mét vuông với giá 3 triệu/tháng.

Tôi viết ra những lời này không phải để tự đề cao bản thân và khinh miệt những người dưới quê lên thành phố hay. Tôi viết ra vì tôi thấy thật buồn cho chính mình và thành phố này, tôi nhớ Sài Gòn da diết nhưng tôi không bám riết lấy nó vì như ở trên đã nói, tình yêu với tôi là hy sinh chứ không phải mù quáng. Nhưng chỉ một mình tôi không thể làm gì được cả. Nên tôi mong muốn những bạn sinh viên học xong thì hãy về phát triển quê nhà, các bạn giỏi thì ở đâu cũng kiếm ra tiền. Những người dân lao động cũng thế. Đừng trách quê mình nghèo rồi mình phải đi chỗ khác kiếm ăn. Mình sinh ra, lớn lên ở đâu, mình yêu thương vùng đất ấy thì mình phải chính là người gầy dựng nó chứ không phải ai khác cả.

Trong mắt tôi Sài Gòn chẳng còn phồn hoa, tráng lệ gì nữa, cũng chẳng còn bình yên, lịch thiệp như ngày tôi còn bé. Nó chỉ là một thành phố hỗn tạp đầy tệ nạn, khói bụi và ô nhiễm, đầy những cửa tiệm đắt tiền, những vỏ bọc hào nhoáng, những ảo tưởng bao trùm lấy. Các bạn có đau lòng khi nhìn người mình yêu càng ngày càng xa đoạ không? Tôi yêu và nhớ Sài Gòn da diết nhưng phải làm sao bây giờ?

Tác giả: Bà Năm
Edit: Triết Học Đường Phố

*Featured Image: Quangpraha

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Cộng Hòa, Plato – Tinh hoa trí tuệ trường tồn qua 2000 năm

thđp review

“Ngô bối phải học đừng ôm thương tích, đừng phí phạm thì giờ khóc lóc, như trẻ con lao đầu vào nhau, mà phải luôn huấn luyện tâm trí băng bó thương tích, điều chỉnh lỗi lầm càng sớm càng quý, trừ khử nỗi buồn bằng chữa trị.”

Giới thiệu về tác phẩm Cộng Hòa kinh điển của Plato

Cộng Hòa

Cộng Hòa là một tác phẩm để đời của triết gia được nhiều người xem là vĩ đại nhất mọi thời đại – Plato, kể về cuộc đàm luận triết học của thầy mình – Socrates cùng những triết gia đương thời khác. Tất nhiên, tác phẩm thể hiện tư tưởng của Socrates nhưng thực chất nó đang ẩn giấu tư tưởng của Plato vì nội dung cuộc đàm thoại này được Plato viết nên sau khi người thầy đáng kính Socrates đã qua đời.

Tôi đã mất gần 20 ngày để đọc xong cuốn sách này – thời gian lớn kỷ lục từ trước tới nay trong sự nghiệp đọc sách của bản thân. Tính ra, Cộng Hòa có khoảng 656 trang nội dung chính thức (trừ đi lời mở đầu và giới thiệu về tác giả), nếu đọc lên thành tiếng như đang trong cuộc nói chuyện thông thường thì trung bình 1 trang tốn 1 phút 15 giây, suy ra toàn bộ cuộc trò chuyện kéo dài khoảng 13.6 giờ đồng hồ, tức là liên tục từ 9h sáng đến gần 11h đêm không ngừng nghỉ(!)

Nếu chứng kiến những người tham gia nói lặp đi lặp lại một chuyện ở cùng một khía cạnh trong ngần ấy thời gian thì có lẽ tôi đã lạc vào buổi tiệc trà mát mẻ của các triết gia Trâu Quỳ. Nhưng điều đáng nói ở đây đó là một chủ đề được cày xới tường tận từng ngóc ngách không hề trùng lặp nhau suốt hơn 13 tiếng thể hiện sức mạnh ý chí và sự uyên bác phi thường của các triết gia.

Đấy là ta hình dung họ như các nhân vật trong tác phẩm. Còn thực tế, ta có thể dễ dàng nhìn ra sự công phu của Plato trong việc mài dũa nội dung và điều tiết cuộc hội thoại của cùng lúc nhiều bộ óc vĩ đại. Ông không những vào vai thầy mình là Socrates mà còn vào vai những người phản biện/ủng hộ ngài ấy.

Triết phẩm này tồn tại được khoảng 2500 năm, sánh ngang với chiều dài tồn tại của Phật Giáo. Những nội dung đã vượt qua được hàng thiên niên kỷ mà vẫn trụ vững giữa cát bụi thời gian thì xứng đáng được coi là kho báu của nhân loại, còn tác giả chắc chắn thuộc bậc vĩ nhân kiệt xuất, ngàn năm mới có một người.

Nội dung chính của tác phẩm bàn luận về định nghĩa công bình chính trực, lợi ích của nó đối với thành quốc, thế nào là người công bình chính trực và phần thưởng dành cho những người công bình chính trực là gì. Nghe tựa đề Cộng Hòa, người ta có thể nghĩ về nội dung sẽ nói đến xã hội cộng hòa, thể chế cộng hòa, nhưng trong nội dung không có gì liên quan đến cộng hòa cả. Đây là một chi tiết tạo dấu ấn khác biệt, đáng nhớ cho tác phẩm lẫy lừng này.

Tư tưởng của Socrates

Xuyên suốt cuộc đàm thoại, Socrates luôn chú trọng mối liên hệ giữa vật chất và tinh thần, giữa cá nhân và tập thể; sự bình đẳng trong việc lựa chọn nhân tài; tầm quan trọng của triết học và triết gia trong sự hưng thịnh của một thành quốc. Ông hết sức đề cao giá trị của việc giáo dục không chỉ về mặt học thuật mà còn về tư tưởng, đạo đức và lối sống. Đặc biệt, ông tuyệt-đối-không-dung-túng cho sự tiêu cực, phóng đãng hay sự tư hữu cá nhân xuất hiện trong thành quốc dù ở bất kỳ hình thức nào dù là vô tình hay hữu ý.

Ở đây, Socrates đã chỉ ra được bốn phẩm chất cấu thành nên công bình chính trực là: Trí tuệ, can đảm, tiết độ và công bình. Ngoài ra, nội dung cuộc đối thoại đề cập đến cách xây dựng thành quốc hoàn hảo dựa trên nền tảng công bình chính trực (dưới sự cai trị của quân vương triết gia), sự hình thành và phát triển các thể chế chính trị trong mối liên hệ với tâm lý con người trong thành quốc; và cuối cùng là sự bất tử của linh hồn.

Phảng phất trong cuốn sách, ta có thể thấy được nỗi cô đơn và sự bất mãn của bậc thầy triết học đối với cơ chế xã hội đương thời coi thường những hiền nhân kỳ tài mà trọng vọng những kẻ mải mê làm tiền, đánh rơi đạo đức.

“…Triết gia hạng sáng giá vượt bực là đồ vô dụng với đa số nhân dân, đồng thời yêu cầu người đó nếu nói vô dụng thì đừng chê bai người sáng giá mà chê bai người không sử dụng người sáng giá.”

Socrates đã sử dụng phương pháp suy luận logic để tìm ra bốn đặc điểm của công bình chính trực. Ông quan sát thế giới xung quanh (từ việc nhuộm vải, đóng tàu, chữa bệnh, canh gác, chăn nuôi, xây dựng, thậm chí cả việc trộm cắp) để tổng kết lại quy luật vận động chung của chúng.

Không chỉ dừng lại ở khả năng am tường lý luận và thấu hiểu bản chất các hiện tượng cuộc sống, ông còn thể hiện kiến thức chuyên môn sâu sắc ở rất nhiều lĩnh vực học thuật, như: Toán học, vật lý, tâm lý học, thần học, chính trị, thiên văn, văn học – nghệ thuật, v.v… Có thể nói ở đây, Socrates (hay Plato) là bậc thầy trên thông thiên văn dưới tường địa lý, một vĩ nhân với bộ óc và tầm nhìn xuất chúng.

Cộng Hòa và Phật pháp

Các nội dung trong triết phẩm Cộng Hòa có nhiều sắc thái tương đồng trong đạo Phật khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng, như: Tính không, con đường trung đạo và sự trai giới. Tính không tương đương với phẩm chất công bình – điều quan trọng nhất để 3 phẩm chất đầu tiên là trí tuệ, can đảm và tiết độ được tồn tại mà không nhúng chân vào lãnh địa của nhau. Con đường trung đạo thể hiện ở lối sống kỷ luật, tiết độ, tránh xa cực đoan, phóng đãng.

Còn sự trai giới thể hiện trong cách giáo dục đàn ông và đàn bà trong thành quốc: Không tà dâm (quan hệ vợ chồng bừa bãi), không nói dối, không uống rượu và các chất gây say, không trộm cắp (tư hữu vàng bạc, của cải riêng tư, là tài sản của chung thành quốc). Ngoài ra, Cộng Hòa cũng đề cập đến các nội dung về luật hấp dẫn (đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu) và quy luật nhân quả báo ứng.

“Chức năng của nhiệt không phải làm cho mọi vật lạnh, mà là chức năng của đối lập của nhiệt. Chức năng của khô không phải làm cho mọi vật ướt, mà là chức năng của đối lập của khô. Như vậy, làm hại con người không phải chức năng của người tử tế, mà là chức năng của đối lập của người tử tế.”

Những lý luận và phân tích của Socrates cực kỳ tinh anh, sắc sảo và thẳng thắn, các luận điểm dường như không thể tìm được kẽ hở. Ông phản biện và chứng minh luận điểm của mình chủ yếu bằng phương pháp loại suy, ngoài ra còn chứng minh bằng mệnh đề tương phản (phủ định), phương pháp tổng hợp, quy nạp, suy luận trực tiếp. Bên cạnh đó, Socrates còn dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ, ngụ ngôn, biểu tượng. Tất cả các ngóc ngách của tâm trí được lật tung cày xới, những rối nùi được tháo gỡ một cách ngoạn mục và trí tưởng tượng được thúc lên một tầm cao mới.

cộng hòa plato 2

“Chúng gọi hổ thẹn là ngu đần, đẩy hổ thẹn vào vòng tủi nhục, lưu vong; chúng gọi tự chế là hèn nhát, thẳng tay vấy bùn bôi nhọ bêu xấu, rồi tống khứ; chúng thuyết phục người thanh niên tiêu pha đắn đo, đúng mức là quê mùa, bần tiện; chúng kêu gọi hằng hà sa số thèm muốn vô dụng đến trợ giúp để xua đuổi tằn tiện, tiết độ khỏi biên cương.”

“Sau khi khoét rỗng, tẩy sạch tâm trí nạn nhân, sẵn sàng long trọng đón nhận lễ nghi truyền thụ huyền bí, bây giờ chúng triệu gọi quá độ, hỗn loạn, hoang phí và xấc xược từ cõi lưu đày trở về. Nhanh như chớp chúng choàng hoa tất cả rất ư lộng lẫy, diễn hành tất cả rất ư trang trọng, tùy tùng theo sau tấp nập, dồn dập.

Chúng ngợi ca tất cả, mệnh danh bằng tên hoa mĩ; xấc xược chúng gọi là nho nhã, buông thả là tự do, hoang phí là hào hiệp, trơ trẽn là can đảm. Quý hữu có đồng ý đó là cung cách vì còn trẻ dại thanh niên thay đổi từ người được nuôi dạy giữa thèm muốn cần thiết thành người buông thả, đắm chìm trong thú vui vô ích, không cần thiết không?”

Các lý luận và chứng minh của Socrates vô cùng chặt chẽ, các luận điểm của các bậc triết gia cùng đàm luận bị soi đến tận chân tơ kẽ tóc và bị bẻ gãy từng chút từng chút một. Những vị đó cứ gật gù xuôi theo bậc vĩ nhân đang phản biện mình rồi đến cuối cùng không hiểu mình đã sai ở đâu vì lời kết luận của Socrates hoàn toàn thuyết phục – thứ đối ngược tuyệt đối với luận điểm ban đầu mà các vị kia nêu ra.

Ai nấy cũng đều bối rối và ngả nón thán phục. Tuy nhiên, cũng có những kẻ dùng lời lẽ ngụy biện, khích bác, châm chọc, lý sự cùn, thiếu dẫn chứng, lắt léo không tỏ ý xây dựng cũng bị Socrates soi thấu tận tim đen nên buộc phải thoái lui, quy hàng.

Cộng Hòa là một pháp đường của logic, một đấu trường thượng đẳng về tư duy lý luận

Nếu không bàn gì đến nội dung công bình chính trực, thì ta có thể gọi cuộc đàm luận này là một pháp đường truyền đạt những điều tinh hoa tổng hợp nhất về bộ môn logic, là một đấu trường thượng đẳng về tư duy lý luận. Ở đây, nội dung cuốn sách không chỉ nói tới những mặt lợi ích của việc suy luận logic, mà còn nói về mặt trái của nó khi sử dụng không đúng cách (sẽ làm gia tăng ngã mạn trong những kẻ miệng lưỡi chèo chống và thúc đẩy sự cạnh tranh, đối chọi hơn là cùng nhau thảo luận tìm ra sự thật.)

Những người quen với xu hướng nói chuyện cảm tính, cảm giác, không đi vào trọng tâm thì khi đọc Cộng Hòa sẽ bị dội ngược ra ngoài vì chức năng phân tích của bộ não phải huy động hết công suất. Khối lượng thông tin cần xử lý là khổng lồ, đặc biệt trong suy luận logic, chúng cần phải được liên kết với nhau chặt chẽ.

Để duy trì được một mạng lưới luận điểm dày đặc, vi tế mà không bỏ sót những kẽ hở của chúng, người tham gia phải có một tư duy sắc bén, trí nhớ siêu phàm và óc tưởng tượng đa chiều bậc cao. Đọc Cộng Hòa mà không bị đau não, người đó chắc hẳn là Plato rồi.

Trải qua triết phẩm lừng lẫy này, tôi nhận thấy khả năng suy luận logic của mình chỉ là một hạt cát giữa sa mạc. Có những câu, những đoạn, rõ ràng là viết bằng tiếng Việt mà tôi phải đọc đến năm bảy lần mới hiểu được nó đang nói về điều gì.

Thậm chí có lúc đọc lại nhiều lần rồi mà không thể nắm bắt nổi nữa, tôi buộc phải bỏ qua để sang nội dung tiếp theo. Mà khổ nỗi, nội dung tiếp theo lại liên quan mật thiết với những gì tôi để dở dang trước đó, nên thành ra lỗ hổng trong việc nắm bắt ý tứ tác giả muốn truyền đạt càng lúc càng lớn.

Tôi thấy mình như một kẻ phàm nhân ngu dốt lạc vào giữa buổi trà đạo của các tiên ông trên cõi trời cao quý. Lời nói của các tiên ông toát ra khí chất siêu phàm thu hút tôi ở lại lắng nghe, dù đôi lúc, vận công não bộ đến mức tối đa, tôi vẫn không hiểu các ngài ấy đang nói gì.

Có lẽ, đây là tác phẩm đầu tiên từ trước đến nay khiến tôi có thể trụ lại bằng mọi giá dù biết chắc chắn rằng mình chỉ nắm bắt được 1/1000 tinh túy gì đó mà thôi. Mua một quyển sách chưa tới 200 ngàn mà được dạt về bối cảnh hàng trăm năm trước công nguyên, ngồi quanh đâu đó dỏng tai lên nghe các thánh nhân đàm đạo cũng là một cái giá quá rẻ.

Không phải tất cả những nội dung của sách Cộng Hòa đều dễ dàng được tán đồng và chấp nhận đối với con người thời đại ngày nay

Cuốn sách được liệt vào hàng tinh hoa nhưng không phải tất cả những nội dung ở đó đều dễ dàng được tán đồng và chấp nhận đối với con người thời đại ngày nay. Đơn cử như việc mang thai và sinh sản của người phụ nữ là việc chung để phục vụ thành quốc, đứa con là tài sản chung, không phải của riêng bố mẹ, chúng sẽ được tách ra khỏi bố mẹ để đi rèn luyện trong trường riêng.

Trong hôn nhân, việc quan hệ vợ chồng là rất hạn chế, sinh sản chỉ phục vụ mục đích tạo ra thế hệ đời sau, chứ không phải để thỏa mãn nhu cầu tình dục. Đặc biệt trong việc gây giống phải là sự kết hợp giữa những cá thể bố mẹ tốt nhất để sinh ra những đứa con hoàn mĩ nhất. Còn những đứa con dị dạng, yếu kém sẽ bị loại bỏ.

Trong đời sống cá nhân, con người phải tuyệt đối thanh đạm, chỉ duy trì nhu cầu sinh hoạt tối thiểu để tồn tại, không tích trữ của cải để hạn chế sự đau khổ gây ra do của cải, và tạo nên sự chênh lệch giàu nghèo.

Đọc cuốn Cộng Hòa, tôi cũng học được thêm rất nhiều từ/cụm từ mới giàu hình ảnh trong Tiếng Việt nhờ dịch giả Đỗ Khánh Hoan đầu tư công phu, VD như: Tuổi hạc trăng khuya (về già), nô tỳ nhà tắm (dung tục, thô thiển, bỗ bã), tung mảnh sấp ngửa (phát biểu liều, không rõ căn nguyên), ngắt trái cười còn xanh (kém khôn ngoan), v.v…

Tuy nhiên, các đại từ nhân xưng (ngô bối, tiểu điệt, quý nhân, bỉ phu, tiện nhân, bản nhân, tiên sinh, quý hữu) được sử dụng trong cuốn sách này khá rắc rối và lạ lẫm so với giao tiếp thông thường nên gây ra không ít khó khăn cho cá nhân tôi trong việc phân định ai là người đang phát biểu và người này đang nói về chính mình hay đang nói với đối phương.

Cuốn sách vẫn xuất hiện những lỗi đánh máy rải rác, nhưng lần này do không muốn bỏ lỡ nội dung “nặng đô” của Cộng Hòa chỉ vì để ý đến những tiểu tiết hình thức nên tôi bỏ qua hết nhược điểm này. So với độ vĩ đại của tinh thần tác phẩm dung chứa thì những sai sót kia chỉ là cát bụi ngoài da, không đáng đếm xỉa.

Có lẽ, tôi phải mất cả đời trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm và trí tuệ rồi đọc đi đọc lại triết phẩm này nhiều lần thì mới có cơ may nắm bắt được sâu sắc hơn những nội dung nó truyền đạt. Lần đầu tiên khi review một tác phẩm, tôi cảm thấy mình không xứng đáng để được đưa ra nhận xét về nó. Mọi thang điểm của tôi vỡ vụn khi đứng trước tuyệt phẩm Cộng Hòa. Nếu tiếp tục mang thang điểm đó ra dùng thì sẽ chẳng khác gì trò cười cho thiên hạ, tôi sẽ trở thành một tên hề đang lấy con kiến để đo đạc một con khủng long vậy.

Nếu bạn là một kẻ khao khát vẻ đẹp chân chính, trí tuệ đích thực và sự thật tối hậu thì Cộng Hòa của Plato là điểm dừng chân hoàn hảo cho cuộc kiếm tìm, bất kể chóng vánh hay lâu dài. Còn bây giờ, tôi xin được khép lại cuộc du ngoạn táo bạo của mình tại đây bằng một đoạn trích tâm đắc nhất trong triết phẩm này. Nó nói về việc cai trị thành quốc nhưng theo tôi nó đang ngầm ngụ ý về việc tu luyện chính mình của con người.

“Thật sự là nếu muốn có thành quốc cai trị tốt đẹp xuất hiện, quý hữu phải tìm cho người cầm quyền tương lai cuộc đời tốt đẹp hơn việc cầm quyền. Vì chỉ khi đó và chỉ ở đó thôi, quý hữu mới có chính quyền do người giàu có thực sự điều khiển, nghĩa là, giàu có không phải về vàng bạc, mà giàu có về khả năng đem lại hạnh phúc, sung sướng, thảnh thơi cho cuộc đời và con người.

Trái lại, trong việc trị nước, nếu quý hữu để bọn nghèo đói, thèm khát lợi ích riêng tư cầm quyền, tưởng tượng vị thế ưu tiên, thầm nhủ quyền bính vô hạn, họ sẽ chộp vồ, vơ vét của cải con người thèm muốn, quý hữu sẽ không có thành quốc cai trị tốt đẹp hiện hữu. Khi quyền hành trở thành đối tượng cần giành giật, đó là chiến tranh, đó là nội chiến, chiến tranh trong gia đình, họ tìm cách giết lẫn nhau, mâu thuẫn nội tại hủy hoại cả họ lẫn xứ sở.”

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

💎 Xem thêm: [THĐP Translation™] Socrates bàn về Trí tuệ

[Quora] Chúng ta có thể làm gì để thế giới tốt đẹp hơn?

2

Giáo viên Anh văn của tôi đã từng kể một câu chuyện. Tôi chắc là nhiều người trong số các bạn đã từng nghe qua rồi, có thể là đã có một phiên bản “chính thức” nhưng tôi sẽ kể đại khái câu chuyện từ bộ nhớ của mình.

Một người đang đi bộ dọc bờ biển sau một trận bão. Có rất nhiều con sao biển đã bị sóng đánh dạt vào bờ, hàng nghìn con nếu không phải là hàng triệu con. Anh ta thấy một cậu bé đang nhặt từng con sao biển lên rồi ném xuống đại dương. Anh tiến đến gần cậu bé rồi nói, “Nhiều như vậy làm sao ném hết được hả nhóc. Có lẽ em nên về nhà ăn tối đi. Ném mấy con này xuống biển làm gì cho mệt, không bao giờ tạo ra được khác biệt gì đâu.”

Cậu bé nhặt thêm một con sao biển khác và nói, “Đối với con này thì khác biệt một trời một vực,” rồi ném nó xuống biển.

Thế giới đang khá là bầy nhầy, không thể trốn thoát được nó. Chiến tranh, giết chóc, thảm sát, đói nghèo, bệnh tật… Bạn không thể làm được gì nhiều để tạo ra sự khác biệt.

Nhưng bạn có thể tạo ra sự khác biệt một trời một vực cho một người nào đó, có thể là một vài người. Bạn có thể làm những gì mình có thể để thắp sáng một phần nhỏ của thế giới. Có lẽ nếu ai cũng làm, sẽ không còn con sao biển nào trên bờ nữa.

Tác giả: Jake Williams, 18.9k views – 2.8k upvotes
Dịch: Huy Nguyen

📌 Ủng hộ dịch giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2