32 C
Nha Trang
Thứ năm, 31 Tháng mười, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 106

Gửi anh trai thương mến

2

Gửi anh đẹp trai – thông minh – thiên tài của Ni!

Lâu lắm rồi chẳng có nổi một bức tâm thư nào cho nhau, đúng thiệt như anh nói, thời gian chẳng còn lại bao nhiêu nên em cũng đang cố gắng làm thật tốt những dang dở trong cuộc đời mình. Nhưng có lẽ, chính anh em mình cũng quên mất một công việc quan trọng khác, cũng cần phải làm thật tốt. Đó là thường xuyên sẻ chia, bằng thứ ngôn từ mộc mạc giản đơn, như tình yêu mà anh em mình vẫn luôn dành cho nhau.

Thật ra em cũng không hẳn quên, đôi lúc muốn viết, viết được một nửa rồi bấm xóa, hoặc kiểu cho vào hộp thư nháp không gửi đi. Vì nghĩ cuộc sống anh dạo này đã có nhiều hơn những áp lực, những việc quan trọng khác cần tập trung, nếu cái gì đó em có thể tự giải quyết, thì cũng đừng khiến mọi thứ rối ren hơn.

Sáng nay thời tiết ẩm ướt, tuy không mưa nhưng cũng chẳng có nắng, vậy mà em đã bon bon chạy ra phố với ảo tưởng hôm nay đúng là một ngày tuyệt vời. Em có cảm giác mỗi lần ngồi trên con xe của mình, chỉ cần nghe tiếng bô xe là em đã thấy rất yêu đời. Cảm giác thu hút được nhiều ánh mắt vào mình. Em thấy mình luôn cực ngầu cùng với con trâu già này. Vậy mà bấy lâu nay cứ để nằm xó. Nó khiến em nhớ lại khoảng thời gian trước đây, những ngày tháng lang thang phiêu bạt và sống hết mình cho giấc mơ tuổi trẻ. Hồi ấy em đã sống với lý tưởng cao đại “Không có gì là mình không thể làm được.”

Từ ngày chuyển lên Đà Lạt, ở đây em có một cuộc sống tao nhã, tuy không đầy đủ tiền bạc để thỏa mãn những ham muốn vật chất, nhưng em đã cố gắng từ bỏ tất cả những ham muốn ấy để được sống với lý tưởng hiện tại. Đã có khi em nghĩ đó là một sự hèn yếu, nhưng cũng đôi lần em tin chắc đó là mạnh mẽ. Đã có khi em nghĩ mình không còn là chính mình, nhưng cũng có khi em nghĩ mình vẫn cứ là thế. Hôm qua em đã sống và cương quyết tin rằng không có bất kỳ điều gì em muốn là em không thể làm được. Em đã có thể lang thang đơn độc khắp nơi, ngủ bờ ngủ bụi. Em có thể làm việc hơn 16 tiếng một ngày để sống cuộc đời mình ao ước. Vậy mà giờ đây em nói em không thể bước ra xã hội và tìm kiếm một công việc gì sao? Em nói rằng em ngán ngẩm sợ hãi nhân loại này lắm rồi sao? Con người của ngày hôm qua đâu rồi mà giờ còn lại đây một cái tôi hèn nhát yếu đuối thế này. Nhưng rồi nghĩ mọi sự không phải như em nghĩ, em vẫn chính là em, vẫn cương quyết sống và trung thành với lý tưởng của mình.

Em vẫn đang làm những điều em cho rằng không có gì là không thể đấy thôi. Tại sao mọi người lại bảo chúng ta cần làm những công việc mình không muốn để kiếm tiền, tại sao em không thể sống kiểu em muốn. Em vẫn nhất quyết trung thành với sự lựa chọn này bất kể những lời chỉ trích và phản đối của mọi người. Là em vẫn đang mạnh mẽ bảo vệ lý tưởng của mình đấy chứ, chỉ là lý tưởng đó đã thay đổi sang một điều khác trước đây.

Em chưa bao giờ nghĩ em cần lựa chọn một sự ổn định, ngay cả sự lựa chọn lúc này, mọi thứ vẫn chỉ là một sự tìm kiếm và trải nghiệm. Ngay cả việc em đóng cửa nhốt mình trong nhà và viết ra những điều tiêu cực, hay việc em không tiếp xúc với con người, không chịu bước ra đường, mọi thứ cũng chỉ đang là một sự trải nghiệm.

Em nghĩ anh hoàn toàn sai khi nói rằng nếu không làm việc thì em sẽ không viết được gì. Em đang trải nghiệm một cuộc sống không làm gì để viết lên sự trần trụi của nó. Sự trần trụi của một cuộc sống không làm gì mà nếu bước ra xã hội và gặp gỡ nhiều người, lao vào cuộc sống và đánh mất cơ hội được đơn độc trong chính góc tối tâm hồn mình. Chính cái sự không làm gì nó cũng hoàn toàn có trải nghiệm riêng biệt của nó. Em nghĩ rằng không có một sự thể nào diễn ra mà không mang ý nghĩa riêng.

Anh em mình đã cùng khởi sinh từ một nguồn cội, chúng ta đọc chung những quyển sách, xem chung những bộ phim, cùng nói về những câu chuyện. Chúng ta chịu một phần ảnh hưởng trong con người nhau. Nhưng chúng ta đã lên đường và dấn thân vào những cuộc sống khác nhau, dù cho anh em mình vẫn luôn nhớ đến sự hiện diện của nhau trong cuộc đời này. Tuy nhiên, có những ngã rẽ mà chúng ta đã chọn sang ngang, càng bước đi càng thấy có nhiều ngã rẽ, vẫn may sao chúng ta vẫn còn được trông thấy nhau, thỉnh thoảng ngồi chuyện trò bên nhau. Vẫn là “Nhiều khi muốn quay về, ngồi yên dưới mái nhà.” Em thấy thật hạnh phúc khi chúng ta đã không cố gắng chạy theo cuộc sống để vội vàng đánh rơi nó.

Chẳng biết mình đang muốn nói gì nhưng các con chữ thì cứ lần lượt tuôn ra, chỉ vậy thôi. À, có thể là em muốn nói với anh rằng cuộc sống hiện tại vẫn chỉ là một sự tạm bợ, một chặng dừng chân để nghỉ ngơi, em rồi sẽ còn bước đi rất xa nữa. Và chẳng có gì để anh lo lắng và muộn phiền về em. Anh thấy đấy, em đã cương quyết bỏ nhà đi, bỏ học vào Sài Gòn, bất chấp tình yêu và nước mắt ba mẹ đã dành cho em. Rồi một mực bỏ Sài Gòn ra đảo. Từ bỏ mọi thứ ngoài đảo để quay trở lại với xã hội, rồi đi lang thang, rồi lạc trôi lên ngọn đồi này sống như một kẻ vô dụng. Em biết mình là một đứa ngoan cố và ngông cuồng. Nhưng hãy nhìn vào sự nỗ lực của em trên những đoạn đường em đã đi qua, hãy có niềm tin và hy vọng về ý chí muốn được sống trọn con người của em. Đến lúc muốn hồi sinh đâm chồi lại vào xã hội nhân loại, em nghĩ em vẫn sẽ biết cách để lại nảy mầm như đã bao lần gieo hạt .

Hãy yên tâm vào đứa em gái này. Em vẫn luôn là em gái lang thang yêu quý của anh. Vẫn mãi lang thang không bến đỗ dừng chân.

Cám ơn anh vì vẫn luôn bên cạnh và động viên em.

Gửi từ Ni – dễ thương – hiền – mà tội nữa.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: pasja1000

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

[Movie Review] The Motorcycle Diaries – Hành trình tìm kiếm tuổi trẻ của chàng trai Che Guevara

4

Có những con người đã mãi nằm im trên nấm mộ phần, nhưng vẫn còn đó một tuổi trẻ chưa bao giờ bị lãng quên. Hàng ngày, hàng giờ, mỗi một giây một phút trôi qua, không biết bao  người vẫn còn nhắc mãi về một cái tên, bao nhiêu câu chuyện kể mãi về một chuyến đi. Đó chính là hành trình xuyên châu Mỹ La Tinh, hành trình đi tìm kiếm tuổi trẻ của anh hùng huyền thoại khiến lịch sử mãi gọi tên “Ernesto Che Guevara.” Sau bao lần định viết rồi lại thôi, trái tim người trẻ hôm nay đã thực sự sẵn sàng để đặt bút viết lên.

Che Guevara là một nhà cách mạng Mác xít nổi tiếng người Argentina. Là một lý thuyết gia quân sự, nhà lãnh đạo phong trào cách mạng Cu Ba cùng đội quân du kích. Nhưng trong bài viết này, tôi chẳng muốn bận tâm người anh hùng đó là ai, không nói đến chính trị, không nói đến cuộc đời. Tôi chỉ đang gọi tên một anh chàng như bao người trẻ khác cùng với làn hương thơm mát mà anh ta đã thổi vào cuộc đời tôi, mùi hương ấy lay động và làm khuây khỏa trái tim tôi với bao nhiêu khát vọng đang chờ đợi được dấn thân vào cuộc đời.

Năm 23 tuổi, Che Guevara lúc ấy vẫn đang còn là một sinh viên y khoa. Quyết định lên đường chinh phục châu Mỹ La Tinh cùng người bạn thân Alberto Granado đang chuẩn bị bước vào tuổi 30 bằng chiếc motor cũ kĩ bệnh tật mà hai gã đã ưu ái đặt tên “Xế thần”.

“Nói thật, bố luôn mơ ước làm những việc như thế này, bố thừa nhận là nếu mình trẻ tuổi hơn, bố sẽ ngồi lên chiếc xe đó cùng con.”

Chỉ một lời dặn dò thế này trước lúc lên đường đã nói lên tất cả về một khởi sinh quá may mắn của chàng trai lãng tử, ngang tàng khi được sinh ra trong gia đình thuộc dòng dõi những người thích dấn thân vào những chuyến phiêu lưu, mạo hiểm. Và chàng trai trẻ đã lên đường nhận lấy sứ mệnh đó mặc cho căn bệnh hen suyễn từng bao lần siết lấy sự sống của Che từ lúc còn là một cậu bé 2 tuổi. Che chưa bao giờ có ý định chạy trốn nó, chiếc kim tiêm là thứ đã luôn bám riết lấy cuộc đời Che, nhưng Che không sợ hãi, quả thật là nó khiến Che ám ảnh, ám ảnh đến mức đã muốn trở thành một bác sĩ với ý định sẽ chữa lành bệnh cho các bệnh nhân khác với tư cách tôi cũng là một bệnh nhân.

“Mẹ ơi! Buenos Aires đã ở phía sau chúng con rồi, cũng như cuộc sống khốn khổ của bọn con, những bài giảng buồn ngủ, giấy má và bài kiểm tra. Phía trước bọn con, châu Mỹ La Tinh đang vẫy gọi. Từ giờ chúng con đặt niềm tin vào xế thần. Nếu mẹ mà nhìn, thì tụi con như lũ lang bạt, thu hút sự chú ý ở mọi nơi chúng con đi. Con thấy vui vì đã bỏ lại nền văn minh ở phía sau, và giờ đang tiến đến gần các vùng đất.”

Ngay từ thời thơ ấu, Che đã nghĩ mình thuộc về thế giới này và đất nước Argentina chỉ là nơi sinh ra anh chứ không phải là nơi trú ngụ của anh. Những chân trời mới lạ lùng, kỳ diệu và diễm tuyệt. Che được sinh ra để lên đường tìm kiếm chúng, không phải như những con chim nhút nhát, mà là “con chim tuổi trẻ bay đi, bay đi, nhưng không bay về.” Như lời của Granado đã nói về Che.

Tuổi trẻ lang thang, như con chim hót cất lên những khát vọng cháy bỏng. Nhưng cũng chính tuổi trẻ khát khao ấy đã cướp đi những gì yêu dấu nhất mà Che có. Một con dao hai lưỡi cho sự ác độc buông tên, để lưỡi dao còn lại kia làm tổn thương trái tim người trẻ.

“Trái tim tôi đung đưa như quả lắc, giữa cô ấy và con đường. Tôi không biết có sức mạnh nào đã lôi mình ra khỏi ánh mắt nàng, kéo xa vòng tay nàng. Nàng ở lại, chìm trong nước mắt vì sầu muộn, giấu mình sau cơn mưa và những ô cửa kính.”

Và quả thật sự độc ác đã bắn trúng tim Che. Che đã ra đi và mãi mãi nói lời vĩnh biệt nàng, không bao giờ còn được quay lại mảnh tình xưa, nụ hôn xưa giờ mãi chìm vào quên lãng. Người đi cứ hẹn, chưa kịp trở về thì người ở lại đã không còn muốn nói câu chờ mong. Nàng bảo nàng sợ phải chờ đợi đến héo mòn.

“Mẹ ơi! Bọn con đang bỏ lại gì phía sau khi băng qua biên giới? Mọi khoảnh khắc dường như đều chia ra làm hai. Nỗi buồn tiếc những gì đã bỏ lại. Mặt khác, là niềm vui phơi phới khám phá những vùng đất.”

Điều mà chuyến hành trình đã ban cho họ là vô cùng độc ác. Vượt hàng ngàn dặm đường qua nhiều quốc gia với biết bao tình huống nguy hiểm và rủi ro, đói khát, giá lạnh, đau khổ, trôi dạt trong không gian và thời gian. Nhưng chính nó cũng đã trả lại những điều bất khả mà không ngôn từ nào có thể vẽ ra. Chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ bí ẩn của châu Mỹ La-tinh, gặp rất nhiều người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau và cũng tận mắt chứng kiến những cảnh sống khốn cùng, tuyệt vọng của con người…

“Mẹ ơi! Con biết mình không thể giúp được con người tội nghiệp này. Một tháng trước bà ấy vẫn còn làm hầu bàn, dù thở khò khè như con. Bà cố gắng để sống có phẩm cách. Trong ánh mắt đang hấp hối đó, con ước muốn được thông cảm, được an ủi mà giờ đang tan biến. Như thân xác bà ấy rồi cũng hóa cát bụi, và bay vào cõi hư vô vĩnh hằng xung quanh ta.”

Che đã tận mắt trông thấy những thân phận mà chính họ đã giết chết đi tất cả những sự thật anh chưa bao giờ biết đến. Đó là một phép lạ thân thiết gắn kết anh gần gũi hơn với cuộc sống của những người da đỏ, những người tận dưới đáy xã hội, những con người bị bọn nhà giàu bóc lột. Tất cả sự thật trần trụi ấy đã hiện ra khiến trái tim anh lần đầu tiên nhói lên sự đồng cảm.

“Đôi mắt họ ánh lên nỗi buồn bi thảm. Họ kể rằng các đồng chí của họ đã biến mất một cách kỳ lạ. Và có lẽ cuộc đời những người đó đã kết thúc ở đâu đó dưới đáy biển. Đó là một trong những đêm lạnh lẽo nhất đời tôi. Nhưng cũng nhờ họ mà tôi thấy gần gũi hơn với nhân loại. Điều này thật lạ thường, lạ thường với tôi.”

Từ đây thổi bùng lên ngọn lửa ước mơ và khát vọng của một con người muốn chinh phục và thay đổi thế giới xung quanh, lời nguyền rủa cho những bất công, cho những bóc lột. Sự bất công của cuộc sống này giờ biến thành thù địch của Che như một âm thanh bị vỡ vụn trong đêm tối lạnh giá. Che biết rằng anh đã kịp nhìn thấy một xã hội chưa bao giờ lấp lánh như trong ảo tưởng của chính anh. Và một ngày kia, tiếng gọi tuổi trẻ đã kịp nhận ra rằng, mình sinh ra là để xả thân vì lẽ sống, vì cuộc sống của mọi người, chống lại mọi bất công từ bất cứ phía nào, bất cứ là ai.

“Lúc rời khỏi khu mỏ, bọn con cảm thấy thế giới đang dần thay đổi. Hay chính bọn con nhỉ? Càng đi sâu vào dãy Andes, con càng gặp gỡ nhiều người bản xứ, những người không có nỗi một mái nhà ngay trên chính mảnh đất ông cha họ.”

Chính chuyến hành trình, chính những thù địch mà Che vừa bập bẹ gọi tên ấy đã đánh cắp đi giấc mơ được trở thành một bác sĩ của Che, để biến Che thành một nhà cách mạng quyết tâm đem cả tâm huyết và sinh mệnh của mình để đấu tranh cho tự do, cho quyền được sống bình đẳng và ấm no của những con người còn bị áp bức trên thế giới.

“Tôi biết điều này và tôi thấy điều đó in dấu trên nền trời đêm. Tôi biết rằng, tôi sẽ vượt lên trên những học thuyết giả dối, chủ nghĩa giáo điều, cầm lấy vũ khí, vượt qua những rào cản và tiến lên. Và tôi thấy tôi hy sinh trong một cuộc cách mạng chân chính, mang lại công bằng và bình đẳng cho con người. Tôi thấy tôi đang hít thở mùi khét lẹt của khói súng và máu quân thù. Tôi rèn luyện bản thân, sẵn sàng chiến đấu và chuẩn bị cho một vùng trời thiêng liêng, trong đó khúc hát khải hoàn của những người vô sản sẽ âm vang vô tận, cùng với sức sống mới và niềm hy vọng mới.”

Xưa kia, người trẻ khao khát biến mình thành con chim nhỏ bay đi phiêu bạt khắp mọi miền chỉ để thỏa ước mơ phiêu lãng bềnh bồng, được phiêu lưu mạo hiểm, gần gũi với thiên nhiên cuộc sống, sống một cuộc đời rồi chết đi thật ý nghĩa. Cái nghĩa giản đơn của tất cả những người trẻ bình thường khác. Thế rồi chàng trai trẻ đã lên đường với khát vọng dịu dàng trìu mến. Nhưng với những gì vây bọc và quá gần gũi bên cạnh mà Che đã nhìn thấy, nếu chàng ta quay lưng và chạy trốn tất cả những bước chân đang dồn dập vội vã trong tâm trí, Che biết mình chẳng khác gì một tên hèn yếu bước trên con đường mù lòa.

“Suốt thời gian sống trên đường đi, có gì đó đã xảy ra. Những điều sẽ khiến tao phải suy nghĩ trong một thời gian dài. Quá nhiều điều bất công.”

Lời chia tay mà Che đã thủ thỉ cùng với Granado sau khi kết thúc chuyến hành trình hơn 9 tháng xuyên suốt châu Mỹ La Tinh. Từ một sinh viên y khoa đầy tình người, vốn bản tính không chấp nhận sống một cuộc đời chật chội, bó hẹp với những khuôn khổ, những lối mòn đã định sẵn, can đảm nhận lấy sứ mệnh tuổi trẻ của mình và lên đường. Một cuộc đời cách mạng sau ngày trở về đã được ông viết lên trên trang lý lịch cuộc đời mình, trên trang lịch sử của dân tộc Cuba, và để cho nhiều người trên thế giới kính phục ca ngợi.

Cuộc đời Che là bảo vệ cho lẽ phải, cho những người bị áp bức không phân biệt dân tộc. Và bất kể có bao nhiêu chính kiến khác nhau về con người này thì với Che: “Tình người là không biên giới.” Đối với tôi, Che Guevara mãi là biểu tượng của hy vọng và niềm tin tuyệt đối, một tấm gương sáng ngời tinh thần quốc tế vô sản, một con người cương trực, thông minh không bao giờ chịu khuất phục.

Tôi viết bài này sau khi đã xem đến lần thứ ba bộ phim Hành trình Nam Mỹ (tựa tiếng Anh là The Motorcycle Diaries).

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: hoahoctro

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

[THĐP Translation™] 15 điều bạn nên biết về chính mình

0
  1. Bạn mạnh mẽ khi bạn có thể dạy cho những nỗi buồn biết cười.

  2. Bạn dũng cảm khi bạn vượt qua được những sợ hãi và giúp người khác làm được vậy.

  3. Bạn thương yêu khi những nỗi đau của bạn không che mắt bạn khỏi những nỗi đau của người khác.

  4. Bạn anh minh khi bạn biết được giới hạn của sự anh minh của mình.
  5. Bạn thành thật khi bạn chấp nhận rằng đôi khi bạn lừa dối chính bản thân mình.

  6. Bạn sống động khi những hy vọng ngày mai có ý nghĩa nhiều hơn những lỗi lầm hôm qua.

  7. Bạn tự do khi bạn kiểm soát được bản thân và không mong ước kiểm soát người khác.
  8. Bạn đáng được vinh dự khi bạn hiểu rằng vinh dự của bạn là vinh dự của người khác.

  9. Bạn rộng lượng khi bạn có thể nhận một cách tử tế như bạn có thể cho.

  10. Bạn khiêm tốn khi bạn không biết bạn khiêm tốn như thế nào.

  11. Bạn tinh tế khi bạn nhìn thấy tôi như chính là tôi và đối xử với tôi như chính là bạn.

  12. Bạn khoan dung khi bạn tha thứ cho người khác những lỗi lầm mà bạn kết tội chính mình.

  13. Bạn xinh đẹp khi bạn không cần một tấm gương nói cho bạn biết.

  14. Bạn giàu có khi bạn không bao giờ cần hơn những gì bạn có.

  15. Bạn là bạn khi bạn bình thản được với những gì không phải là bạn.


Tác giả: Khuyết danh
Dịch: Huy Nguyen

Featured image: jplenio

📌 Ủng hộ dịch giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Homie à, sẽ có người bỏ cuộc chơi, vì gánh nặng cuộc đời?

4

Trong lòng người trẻ có một khát vọng yêu thương với cuộc đời được viết lên bằng hai từ đam mê. Đó là niềm khao khát không bao giờ nguôi thỏa, ước mong được sống trọn vẹn ý nghĩa, nhìn trọn vẹn khuôn mặt dáng dấp. Đó còn là ánh sáng trong cuộc đời tuổi trẻ. Nhưng phải chăng lại là thứ ánh sáng được bao bọc quanh những trách nhiệm. Trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với gia đình, trách nhiệm với xã hội.

Mọi người xung quanh nói, tôi rồi một ngày cũng phải từ bỏ đam mê viết lách của tôi, vì gánh nặng cuộc đời. Tôi không thể cứ sống mãi trong những trang viết, bầu bạn với những nhân vật, chúng không nuôi sống tôi, chúng không đảm bảo cho tôi một cuộc sống ổn định. Tôi rồi sẽ phải khổ sở nếu cứ xoay vần trong đam mê.

“Hãy sống hết mình với đam mê.” Bao giờ cũng nhắc nhở mình thế đấy. Nhưng người ta vừa gửi về cho một đống hóa đơn tiền điện, tiền nước, chủ nhà vừa nhắc đến tháng ngày hôm qua. Những cuộc chiến khốc liệt mỗi đêm cùng nỗi sợ hãi và lo lắng, đôi khi một dấu chấm hỏi khồng lồ từ hành tinh nào vừa rơi xuống trên đầu, tự hỏi liệu có phải mình quá điên rồ, quá ngây thơ vì tin rằng con đường mình đang đi là một sự lựa chọn đúng đắn. Ôi thậm chí mình còn chẳng tự nuôi nổi bản thân, lấy đâu ra mà nuôi dưỡng đam mê? Một ngày đẹp trời nào đó mình có vứt bỏ tất cả để sống hòa thuận cùng xã hội? Vâng, bạn trẻ nào theo đuổi đam mê chẳng có những suy tư chôn giấu kiểu này.

Ai cũng tự bước đi rồi, rất khó khăn, rất tốn thời gian, phải bỏ nhiều tâm huyết. Những bước chân lúc nào cũng đau đớn rỉ máu trên con đường lót đầy sỏi đá. Không dễ dàng như người thành công hô hào, họ chỉ giả vờ vỗ ngực vươn vai khoác lác, chứ họ gối đầu trên nước mắt từng đêm ai nào hay.

Đen Vâu hát: “Homie à, sẽ có người bỏ cuộc chơi, tao biết vì gánh nặng cuộc đời.” Nghe đến câu này đôi khi nghĩ “Man có thể đúng.” Nhưng nhiều khi cũng muốn quát tháo thật lớn lại rằng “Man sai rồi.”

Đam mê phải chăng là tinh tú lấp lánh, luồng ánh sáng huy hoàng? Vậy mà cuộc đời vẫn luôn mời gọi tuổi trẻ chúng ta dấn thân vào cuộc chơi cám dỗ. Chúng ta chưa bao giờ biết đến hạnh phúc trọn vẹn từ khi đặt chân lên con đường này, chỉ động viên mình bằng cách mơ mộng về nó, giả vờ như mình đang nắm giữ nó. Chúng ta mãn nguyện với những ảo ảnh mơ hồ mộng mị, trong khi cái giá phải trả là mình trần da thịt. Ôi những kẻ tay không trắng tay bị xã hội vứt cho cái nhìn khinh bỉ vô dụng. Có phải đã bao lần chúng ta khốn khổ mơ ước mình là một tên mù điếc như chưa từng bao giờ chạm vào được âm thanh ánh sáng của xã hội này.

Ôi đam mê khát vọng của tôi. Nhưng tuổi già lại đang giày vò cha mẹ tôi, con tôi đang than khóc vì miếng ăn cái mặc, xã hội đang lên tiếng cần những con người thành công đứng lên kiến thiết đất nước, mọi thứ đang giày vò tôi trong tiếng khóc than.

Có phải cuộc đời này đã âm mưu trù tính, đã giăng bày sự xảo quyệt thâm hiểm ngay tự khi chúng ta còn chưa đặt chân bước vào thế giới này. Có phải nó đã lên kế hoạch ăn trộm hết tất thảy những gì mơ mộng đó trong chúng ta, để trả về cho chúng ta một sự thật mang tên gánh nặng cuộc đời.

Biết bao đam mê đã xoay vòng giữa cuộc đời và chết trong thinh không hoang vắng. Ánh sáng đam mê đã ngỏ lời cùng họ, nhưng chính gánh nặng cuộc đời đã khiến cho tất cả họ phải câm lặng. Phải chăng vì mặt trời phải xoay theo quỹ đạo, đam mê rốt cuộc rồi cũng phải xoay quanh cuộc đời?

Không, đó chỉ là con đường mà kẻ nào dám theo đuổi đam mê đều phải đi qua. Thi sĩ trẻ tuổi nào không cương quyết đi theo ý chí của mình, kẻ đó ắt hẳn sẽ phải trả giá cho sự yếu đuối của chính mình. Gánh nặng cuộc sống như bóng đêm phủ kín khu rừng đam mê. Nhưng kẻ thi sĩ nào không sợ đêm tối thì chính kẻ đó mới tìm ra được ánh sáng mà họ đang khao khát.

Chỉ khi nào quay mặt khỏi những gánh nặng, khi đó chúng ta mới vượt qua được cái bóng của chính mình, chúng ta mới nhảy vào được ý nghĩa cuộc đời mình, sống giống như một con người hơn.

Không được quy phục xã hội, phải giải thoát đam mê khỏi những con quái vật, hãy chuyến hóa chúng thành những con gia súc gia cầm chạy lon ton trong vườn. Chúng không thể ra lệnh điều khiển bạn, chính bạn mới có quyền năng đó.

Đừng để đam mê của bạn phải câm tiếng đắm chìm trong sự cười cợt chán chê của xã hội này. Hãy để lòng can đảm và anh hùng trong bạn sống dậy.

Chúng ta không chạy theo đam mê, chúng ta đang sống cùng nó mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút và mỗi giây. Bạn và nó đã cùng mỉm cười vào mỗi buổi sáng, chào tạm biệt nhau  mỗi lúc ngủ ngon, nó là không khí bạn thở, bầu trời xanh bạn đang ngắm nhìn, nó là chất liệu tạo nên vũ trụ thế giới riêng trong bạn. Nó là thế giới bạn đang sống, bạn sẽ bị hủy diệt nếu không được sống trong thế giới ấy.

Homie à, tao sẽ không từ bỏ cuộc chơi, vì tao đếch quan tâm gánh nặng cuộc đời.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Chiến dịch vỉa hè sẽ tiếp tục thất bại?

0

Buổi trưa hè, tôi có hẹn một cô bạn đi cafe, lần đầu gặp nhau chúng tôi không nói gì nhiều về cá nhân mà cô ta hỏi tôi về vũ trụ. Và tôi bắt đầu những bài viết của mình với mong muốn cái gì đó bao la. Đó trở thành nguồn cảm hứng khiến tôi nghĩ về sự thất bại của chiến dịch vỉa hè, nếu như ông Đoàn Ngọc Hải vẫn tiếp tục bỏ qua chiều kích xã hội học. Thật lòng xin lỗi những người ủng hộ ông ấy, nhưng đôi khi trong cuộc sống ngoài niềm tin ra chúng ta cần phải có lý tính. Đôi khi một kết quả Z không phải do nguyên nhân A hay B, mà nó đến từ một nguyên nhân khác là Z. Nhưng do sự hạn chế của góc nhìn mà chúng ta thường hay kết luật, kết quả của Z đến từ A hay B.

Có một câu chuyện, vào gia đoạn thập niên 90 tại Mỹ, nhiều chuyên gia dự đoán rằng tỷ lệ tội phạm sẽ gia tăng. Nhưng thật bất ngờ, tỷ lệ tội phạm lại giảm sau lời dự đoán đó. Các chuyên gia tâm lý học tội phạm cho rằng nhờ việc tăng cường cảnh sát quản lý ở các thành phố, các chuyên gia kinh tế học cho rằng kinh tế phát triển nhưng chỉ riêng những nhà xã học cho rằng nó xuất phát từ việc chấp nhận việc phá thai hợp pháp từ 20 năm trước. Đó chính là tác động của hiệu ứng cánh bướm mà đến 20 năm sau chúng ta mới thấy được kết quả. Với quan điểm của riêng tôi, không phải lý do dến từ cách giải thích của các nhà xã hội học, mà tôi nghĩ nó tồn tại tất cả lý do trên và lý do nào cũng đóng vai trò rất quan trọng để dẫn đến việc giảm tỷ lệ tội phạm ở Mỹ. Nhưng cách nhìn của nhà xã hội học tương đối độc đáo, họ đến nói rằng chúng ta đang bị hạn chế góc nhìn, cũng như phương thức mà chúng ta đang thực hiện trong chiến dịch vỉa hè.

Xã hội Việt Nam là một câu chuyện khác, nó khác hoàn toàn ở xã hội phương Tây hay một thành phố nào đó tiêu biểu ở phương Đông. Kết cấu của xã hội Việt Nam liên quan đến cả cách quy hoạch đô thị về hệ thống công cộng, kiến trúc và xe máy. Điều này có nghĩa khi chiến dịch vỉa hè xuất hiện nó sẽ tác động mang tính cộng hưởng đến những mặt kia. Để phân tích kỹ hơn chúng ta cần phải hiểu mặt chức năng về mặt xã hội học.

Khi hệ thống phương tiện công cộng hạn chế, cơ sở hạ tầng tại thành phố Hồ Chí Minh lại nhỏ hẹp và đông đúc, sự đáp ứng của cơ sở hạ tầng với sự gia tăng dân số tại thành phố là một cán cân tỷ lệ nghịch, thì việc lựa chọn xe máy luôn là giải pháp hợp lý cho việc di chuyển và xe máy cũng là sự lựa chọn phù hợp với thu nhập cá nhân hiện ở Việt Nam. Nên chiến dịch vỉa hè muốn thành công thì phải hạn chế được xe máy, nhưng cách giải quyết thì hóc búa vì hệ thống giao thông công cộng lại không đám ứng được tính hữu ích của mình. Cộng với việc cung cấp những bãi đậu xe của thành phố dường như đang bị thao túng bởi chính trị dạng mafia, tôi nghĩ đó là một sự thật chúng ta cần phải mạng dạng nhìn nhận và kiên quyết.

Khi trong tâm lý người Việt Nam có xu hướng sở hữu nhà hơn là một căn hộ chung cư, mặc dù ngôi nhà ấy trong những con hẻm. Sự tập trung ấy, đã vô tình dẫn đến dạng kinh tế tiểu thương, mang tính chất buôn bán nhỏ lẻ và có tính di chuyển. Theo quan điểm của tôi, hàng rong chỉ là một phần trong hình ảnh kinh tế tiểu thương đó. Ở thành phố Hồ Chí Minh, chỉ cần chạy vào những con hẻm bạn có thể thấy người dân luôn tận dụng mọi thứ để kinh doanh mua bán, không phải chỉ có ở những con đường lớn. Rõ ràng quy hoạch thành phố có vấn đề, nhưng việc chúng ta không thể cấm đoán và điều này liên quan đến trình độ dân trí và kinh tế. Giống như Singapore khi giải toả và kiên quyết di dời người dân sống tại các chung cư, chúng ta đang gặp khó khăn như thế. Kinh tế Việt Nam vẫn còn quá yếu để giải toả mặt bằng cho việc phát triển cơ sở hạ tầng.

Sự tham lam về phát triển cũng đẩy thành phố đến bờ vực. Điều này cần phải quan tâm. Thành phố hãy đẩy những ngành không trọng tâm chuyển về các tỉnh thành lân cận, như Bình Dương, Biên Hoà, Tây Ninh, Long An và nếu muốn một sự bền vững thì Cần Thơ sẽ là sự lựa chọn tốt, nhưng sẽ hơi khó vì đó là một bài toán kinh tế khách nữa nếu kết nối đường tuyến cao tốc Cần Thơ và thành phố Hồ Chí Minh. Đó là điều mà ngay cả chính tôi cần viết một bài phản biện về việc kêu gọi nhập của cư của ông Nguyễn Thiện Nhân, đây là một bối cảnh lịch sử khác, không phải thuộc về giai đoạn phong kiến. Có nghĩa là chúng ta đóng cửa thì chúng ta sẽ chết, ở đây các xiết chặt nhập cư để nội định năng lực nội tại rồi tiếp tục mở cửa để phát triển tiếp, cứ theo đà này thành phố sẽ vỡ quy hoạch trong tương lai.

Thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn khác với những thành phố khác. Nếu như ở Đà Nẵng hay Cần Thơ, tôi tin chiến dịch vỉa hè sẽ có khả năng thành công cao vì tính văn hoá của nó. Chiến dịch vỉa hè muốn thành công thì cần phải quay về nền tảng của nó, lý do tồn đọng của nó là ở đâu, chứ không phải suy nghĩ theo kiểu, tội phạm là cứ đổ lỗi do cảnh sát yếu mà trách nhiệm phải thuộc về toàn xã hội. Thành phố cần có chính sách phát triển cơ sở hạ tầng mạnh, đáp ứng những mặt hạn chế, công tác chuyển đổi ngành nghề, tuyên truyền tốt và cần thực hiện cương quyết trong vấn đề ra quân như ông Đoàn Ngọc Hải mới thành công. Nhưng thật lòng mà nói, trong xã hội này rất cần những người như ông ấy.

Tác giả: Đỗ Sơn Trà

*Featured Image: Pexels

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Có một Thượng Đế mang tên Chân Lý

5

Những tôn giáo nói rằng kẻ nào không tin vào Thượng Đế, kẻ đó vô thần. Chân lý nói rằng kẻ nào không tin vào chân lý, kẻ đó không tin có Thượng Đế. Tôi nói rằng kẻ nào không tin vào lời tôi nói, kẻ đó chắc chắn đã tìm thấy chân lý trong trái tim mình.

Tất cả tôn giáo đều do bàn tay con người tạo ra. Tôn giáo nói về Thượng Đế bằng một sự phỏng đoán sáng tạo, nhưng nó không thể vượt qua được ý chí của những kẻ đứng đầu tôn giáo.

Con người tôn sùng Thượng Đế, bằng cách tôn thờ các tôn giáo. Nhưng con người không hề biết chính mình là cha mẹ họ. Tôn giáo là do con người sinh ra, sống trong tư tưởng và ý chí của tâm trí con người. Thượng Đế chẳng bao giờ quan tâm đến các tôn giáo. Thượng Đế không bao giờ sống trong một tôn giáo.

Con người tạo ra tôn giáo nhưng bất kỳ người nào đứng ra nói với đám đông điều đó thì họ điều phải nhận lấy sự trừng phạt. Không phải từ bàn tay Thượng Đế, mà chính từ bàn tay của tôn giáo. Tôn giáo là một tư tưởng làm cong queo đi tất cả những gì thẳng thớm nhất của Thượng Đế. Đức tin vào tôn giáo đã khiến cho tinh thần và cuộc sống con người bị chao đảo, họ khoác lên mình những căn bệnh điên loạn mà khởi nguyên chính là từ niềm yêu thương mù quáng với Thượng Đế.

Tôn sùng các tôn giáo bởi con người muốn tìm đến cách nhìn thấy Thượng Đế, con người muốn đem tư tưởng và ý chí của mình đi cầu xin tôn giáo ban phát, nhưng thực chất con người đã có sẵn những cái đó. Ở một góc trong sâu thẳm tư tưởng con người. Thượng Đế đã đứng sẵn đó cùng chân lý.

Tôi đã nhìn thấy những tôn giáo đông đúc con chiên đến vái lạy, cúng kiếng, đổ vào đó bao nhiêu tiền của để xây dựng, bảo tồn, yêu thương Thượng Đế mà họ tin rằng đang sống trong ngôi nhà được xây lên bằng tiền của họ. Rồi họ dùng những gì viết trong Kinh Thánh, trích Kinh Phật, trích dẫn đủ thể loại kinh sách được đóng khung trong trí nhớ, lặp lại chúng một cách máy móc từ ngôi chùa này sang nhà thờ kia. Lời của Đức Phật, của Chúa, đánh cắp nó một cách trắng trợn bằng cái đầu trống rỗng. Hãy thôi vỗ ngực vươn vai, đồ vay mượn chẳng ích lợi gì, đồ đánh cắp càng dơ bẩn hơn cả thế. Thượng Đế chẳng bao giờ muốn dính dáng đến nó đâu.

Thượng Đế, Ngài làm sao chịu đựng nổi các con chiên của mình khi trái tim họ không nuôi giữ chân lý. Và phải chăng người nuôi dưỡng chân lý là người chẳng bao giờ tìm đến các tôn giáo. Chân lý từ khi nào đã bị đóng khuôn trong các tôn giáo? Chính Thượng Đế là người nói về các tôn giáo chứ không phải là tôn giáo nói về họ.

Chân lý là gì? Đừng hỏi câu ngớ ngẩn này, bởi chẳng có câu hỏi nào cao siêu hơn câu hỏi đó. Cũng như việc bạn đừng hỏi nên tìm kiếm Thượng Đế ở đâu? Nó chắc chắn không nằm trong các nhà thờ, chùa chiền…Tại sao đó là một câu hỏi cao siêu? Bởi lẽ không ai có thể trả lời. Người nào có thể cho bạn một câu trả lời, người đó chỉ là kẻ ngu xuẩn, một tên mù tỏ ra hiểu biết ánh sáng.

Chân lý không bao giờ nằm trong một danh từ, không nằm trong tôn giáo. Chân lý không thuộc về Công giáo, không thuộc về Phật giáo, Ấn Độ giáo…, không thuộc về ai cả. Chỉ có chân lý và Thượng Đế mới thuộc về nhau. Nhưng tại sao các bạn lại đi tìm chân lý từ Thượng Đế thuộc về kẻ thứ ba mang tên tôn giáo?

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Gửi em và tuổi trẻ của chúng ta

0

Mưa đã ngớt nhưng bản nhạc vẫn da diết và buồn hơn cả khi mưa xối xả, anh ngồi đây trong căn phòng với ánh đèn vàng dịu dàng, nghe bản nhạc không lời và muốn viết điều gì đó, điều mà hợp với cảm xúc của hiện tại. Anh đã luôn ấn tượng những con người khiêu vũ với những dòng chữ để mang lại cho người đọc những cảm nhận quá đỗi đáng yêu và tươi đẹp. Anh thì lại không có cái khiếu ấy mà chỉ viết được những dòng chân thật – chân thật một cách khô khan về những gì trong anh đang có, đang cảm nhận, những gì của hiện tại mà thôi.

Anh luôn cảm thấy con người thật vô định, vô định chứ không phải tự do em ạ. Có một sự khác biệt rất lớn giữa chúng, tự do khi em hân hoan, vui vẻ, an nhiên, tự tại làm mọi thứ mà không sợ hãi. Nhưng vô định thì trái ngược. Em sẽ luôn sợ hãi, hoang mang khi em không có chỗ nào để bám víu, hay những thứ em đang dựa vào. Em biết chỉ như ngọn nến trước gió mà thôi.

Sự vô định luôn đi cùng với sự trống rỗng. Anh đã nghĩ rằng đây là số phận của con người, khi chúng ta được sinh ra trong một thế giới mà mọi thứ đã sẵn có và thay đổi liên tục. Ta phải học mọi thứ về thế giới ấy, càng học ta càng hoang mang về mục đích ta sống trên cuộc đời này, ý nghĩa của sự tồn tại nhỏ bé này của ta. Càng hoang mang ta càng cố gắng tìm kiếm câu trả lời để khỏa lấp. Có lẽ tuổi trẻ là quãng thời gian sự vô định và hoang mang đạt đến cực điểm, và cũng là nơi tốt lành nhất để chúng ta khám phá được ý nghĩa của cuộc đời.

Nhìn lại tuổi trẻ của mình, em có yêu chính mình của ngày đó không? Anh nghĩ ai cũng yêu thôi không chỉ tuổi trẻ của ta mà của tất cả mọi người. Hãy nhìn những con người sôi sục nhựa sống và nhiệt tâm ấy, những người luôn muốn làm điều gì có ý nghĩa nhất, cao cả nhất và cống hiến nhiều nhất cho cuộc đời mà chẳng mảy may nghĩ đến bản thân. Em tìm được ở thời điểm nào của cuộc đời một con người có những phẩm chất ấy không – những phẩm chất mà có lẽ chỉ xuất hiện ở các thiên thần nếu như họ tồn tại. Nhưng với những phẩm chất ấy không có điều gì dẫn dắt họ cả, họ tự do đấy nhưng tự do đó là một sự hỗn mang rối loạn không có trật tự, mà đôi khi chỉ để thỏa mãn cho khao khát muốn trải nghiệm nhiều hơn. Những thiên thần này vì không có một trí tuệ nào soi sáng rất dễ sa ngã, họ ngã vào đâu thì hãy nhìn những người lớn tuổi và em sẽ thấy.

Em có nhớ ngày xưa khi ngôi nhà chúng ta chỉ nhỏ thôi, với sân vườn và không có cổng. Chúng ta đến nhà nhau mỗi sáng, mỗi tối để trò chuyện, uống trà, cười vui trong sự thanh thản của cái nghèo. Nhưng càng ngày những ngôi nhà cao càng mọc lên, những cánh cổng kiên cố, những hàng rào cao vượt tầm mắt, chẳng còn mấy ai đến với nhau như ngày xưa nữa vì giờ ai cũng yên ổn trong cái nhà của mình rồi. Nó cũng buồn như cách chúng ta tiếp xúc với nhau vậy, ai cũng đều xây lên thế giới của riêng mình bằng những lý tưởng, ham muốn, ý niệm, niềm tin và yên ổn trong thế giới ấy, chúng ta tiếp xúc nhau qua một bức tường của tư tưởng mà chẳng bao giờ có thể chạm đến nhau thực sự, dù là trong tình yêu và cho đến lúc chết.

Chúng ta đã hóa giải sự vô định bằng cách bám vào những tư tưởng khác nhau và từ đó xây lên cho chúng ta một thế giới riêng mà ở đó ta sống, ta tiếp xúc với người khác, với thế giới. Con người qua bao thế kỷ trải qua bao chiến tranh, ganh ghét, hận thù cũng đều chỉ vì bám chấp hay cố chứng minh thế giới của ta là đúng nhất và muốn tất cả cũng phải giống như thế giới của mình. Nếu như được lựa chọn, anh thà được chọn sự hoang mang trong vô định hơn là bị cầm tù và đui mù trong tâm trí ấy.

“Tôi muốn thúc giục các anh can đảm đi tìm chân lý một mình và can đảm chấp nhận tất cả mọi sấm sét búa rìu của dư luận, và có được thế các anh mới trừ được cái tánh khí ươn hèn của mình bao giờ cũng cố tìm một cái “lồng” để chui vào cho yên thân.”

– Krishnamurti

Anh nghĩ chỉ có một lối thoát duy nhất khỏi sự vô định của người trẻ và sự bám chấp của người già là chúng ta phải ý thức con người chúng ta của hiện tại. Ta phải đối diện với sự vô định ấy xem nó là gì. Ta phải lật lại mọi thứ ta từng tin tưởng, chấp giữ để tìm cho ra sự thật, bởi trong sự ý thức ấy ta mới hy vọng tìm thấy sự tự do, chứ không phải vẽ nên một lý tưởng về tự do để ta bám vào…

Nhưng con người quá dễ dãi và lười biếng em ạ, vì chúng ta chỉ muốn bám víu dựa dẫm vào người khác thôi, chúng ta chỉ muốn bám vào một thứ gì đó chắc chắn để sống theo, hay chỉ muốn thỏa mãn những ham muốn, dục lạc của mình. Và thế giới cũng quá nhiều thứ giải trí, thú vui để ta hưởng thụ đến suốt đời mà không phải lo nghĩ về cái thứ “ý nghĩa cuộc sống” vớ vẩn kia nữa, chúng ta hoàn toàn mãn nguyện và chấp nhận trở thành con rối của xã hội, của lòng tham, của tư tưởng và an phận trong sự ngu dốt và hời hợt đó.

Tuổi trẻ thì không biết điều gì là đúng là sai, là sự thật và còn đang khao khát được trải nghiệm, thì những thú vui kích thích giác quan, dục vọng kia lại hấp dẫn hơn cả, thêm nữa bản năng tính dục bộc phát khiến chúng ta lao vào ái tình như con thiêu thân rồi lập gia đình, sinh con, làm việc, giải trí… trở thành một phần trong cái guồng quay của xã hội, của tư tưởng và ta mắc kẹt trong đó mãi mãi.

Em có thấy mọi điều đó không? Thực sự anh hy vọng mình không phải kẻ bi quan hay bất mãn với cuộc đời để nhìn đời với một thực tế ảm đạm đến thế, đó là tất cả mọi thứ sẽ vồ lấy và nuốt trọn chúng ta vào trong nỗi khốn khổ của con người, chúng ta không còn vô định nhưng chẳng còn sức sống và tự do để cảm nhận cuộc sống này nữa, và rồi “ý nghĩa của sự tồn tại” sẽ bị lãng quên trong nỗi chán trường, thờ ơ, trong sự tự mãn và trong mọi cuộc vui thú của loài người.

Vậy anh và em như hai con người yêu thương nhau, đã nhìn thấy hết mọi điều ấy, ta phải làm gì đây? Chẳng phải ngay từ giây phút này ta phải ý thức thật rõ ràng và sáng suốt con người của ta, những niềm tin lý tưởng và thứ tư tưởng kỳ quặc đang ngự trị trong ta, đang định hình cuộc sống của chúng ta hay sao? Chẳng phải chúng ta phải dồn hết sinh lực của tuổi trẻ để tìm cho ra cái quái gì đang nằm trong đầu ta hay sao? Thay vì lao như một con thiêu thân vào vòng xoáy cuộc đời và đến lúc chết ta cũng không biết mình là ai,  mình sống để làm gì.

Nhưng hãy nhìn xem chúng ta biến tình yêu trở thành thứ gì. Chúng ta dựa dẫm vào nhau, bấu víu lấy nhau, vuốt ve bản ngã của nhau, xây lên đủ thứ lý tưởng lãng mạn hay thực dụng để rồi sống với chúng. Chúng ta có tự do không? Anh nghĩ (và chắc chắn) là không nếu anh và em sống một đời như thế. Chúng ta cần phải một mình – hoàn toàn một mình trong việc đối diện với sự trống rỗng, vô định này, trong mớ hổ lốn của thứ tư tưởng này để tìm cho ra cái gì là Thật, để ý thức sáng suốt chúng ta đang là gì. Và em không thể giúp anh, mà chỉ có thể là tấm gương để anh nhìn lại bản thân, và anh cũng vậy.

Trong mối quan hệ của chúng ta, chúng ta không cố gắng thay đổi nhau, hay làm hài lòng nhau mà chúng ta chỉ chia sẻ sự thật, anh đang giận, em đang buồn, anh đang trống rỗng, em đang hạnh phúc… Tất cả mọi cảm xúc chúng ta có thể chia sẻ nhưng người đối diện sẽ không làm gì khác ngoài việc lắng nghe và chia sẻ cái họ đang cảm thấy, hay gợi mở những câu hỏi để người kia nhìn lại chính mình.

Em có thấy cái đẹp của điều này không, khi cả hai đều tự do và phản chiếu lẫn nhau trong mối quan hệ mà không ràng buộc, bám víu, dựa dẫm, tạo ảnh hưởng, tạo lý tưởng. Trong sự tự do ấy là tình bạn, là sự thân mật, là sự vô tư, là tri kỷ, là tình yêu – thứ tình yêu không nhuốm màu của thất vọng và đau khổ. Chỉ việc ngày qua ngày chúng ta tự ý thức chính mình và là tấm gương cho đối phương thì qua đó tình yêu mới triển nở, nó xuất hiện khi chúng ta không toan tính, không chờ đợi, không lên kế hoạch, không lý tưởng, không mong cầu…

Nó đến tự nhiên khi anh và em ý thức bản thân, chia sẻ sự thật và là tấm gương cho nhau nhìn lại mỗi ngày. Và rồi ta sẽ nhận ra ý nghĩa của sự tồn tại của nhau, chẳng phải để cho nhau có một đối tượng để yêu, mà để đánh thức con người thật bên trong mỗi chúng ta bằng sự tự ý thức mỗi ngày nhờ người kia. Và anh nghĩ đó cũng là ý nghĩa lớn nhất của sự tồn tại giữa con người với nhau – là tấm gương cho nhau để nhận ra chính mình.

“Đó là vì ngươi và người khác là một. Và đó là vì… Chẳng hề tồn tại gì, ngoại trừ ngươi.”

– Neale Donald Walsch, Đối thoại với Thượng Đế

Anh hy vọng nếu một ngày anh không còn tình yêu trong quả tim nữa thì em cũng không ngạc nhiên hay thất vọng vì điều ấy, chúng ta luôn thay đổi và tâm thức cũng vậy. Có những khi anh buồn và trống rỗng thì anh không thể nói yêu em được, tâm anh không thể đang đau khổ và dửng dưng mà lại  vẫn yêu em được, nhưng dù anh không còn tình yêu khi ấy, anh sẽ luôn chia sẻ sự thật với em, những cảm xúc, cảm nhận, suy nghĩ của hiện tại và anh hy vọng em cũng như vậy. Dù có những tháng ngày chúng ta chỉ còn lại sự thờ ơ, lãnh đạm, trống rỗng, ích kỷ, đau khổ… Nhưng hãy đối diện với chúng, ý thức chúng và chia sẻ chân thật về chúng. Khi sự thật được hiển hiện, tình yêu sẽ theo sau em ạ. Anh không biết em có nhận thấy điều ấy không, rằng chúng ta không cần phải trao nhau tình yêu – vì tình yêu không phải thứ để ta có thể trao hay làm gì được với nó, chỉ cần trao nhau sự chân thật và đối diện với sự thật ấy bên trong chúng ta thôi, đó là tất cả mọi điều chúng ta cần làm cho nhau rồi em ạ.

Anh đã từng viết trong cuốn nhật ký của mình rằng: “Nếu một ngày nào đó cậu đọc lại những điều trong cuốn nhật ký này, tôi hy vọng đó là ngày mà nội tâm cậu đã được giải thoát khỏi mọi sợ hãi, đau khổ, dục vọng mà tự do hoàn toàn, thì hãy nhớ đến tôi – cậu bé 23 tuổi này và những người sẽ lớn hơn tôi nữa. Hãy nhớ cậu đã là tôi và cậu đã là tất cả, hãy nhớ rằng chúng tôi đã từng tồn tại dù nội tâm của chúng tôi chỉ có sự trống rỗng, đau khổ nhưng chúng tôi luôn hướng đến điều tốt đẹp nhất. Và dù cho nội tâm cậu có tệ hơn tôi bây giờ thì hãy đối mặt với những gì trong cậu có, tôi biết cậu có đủ năng lượng, niềm khao khát tự do trong con tim và khối óc của cậu, hãy bắt đầu sống với mọi điều trong cậu. Và đừng để chúng tôi là gánh nặng ký ức của cậu, hãy xem chúng tôi là những người bạn trên hành trình cùng cậu đi tìm tự do – giải thoát của cuộc sống.”

Đó là tất cả trí tuệ và tình yêu của tuổi trẻ mà “cậu bé” 23 tuổi ấy gửi đến những người bạn già của mình, dù khi ấy trong cậu vẫn đầy rẫy nhưng hoang mang và trống rỗng cho cuộc đời phía trước, nhưng cậu không sợ hãi, né tránh, mà luôn tự mình bước đi tìm kiếm sự thật trong sự âm thầm và “cố chấp”.

“Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không.” – Tagore

Trên con đường này chúng ta luôn một mình em ạ, em sẽ thấy cô đơn ghê gớm nhưng nếu em sống trọn sự cô đơn ấy, em sẽ thấy cái đẹp của nó, hương thơm tự do của nó. Anh đã đau khổ, đã dằn vặt, đã mâu thuẫn giằng xé tâm can trong nỗi cô đơn, và rồi anh cũng thanh thản, bình an, tự do cũng chính trong nỗi cô đơn ấy. Khi em đau khổ, em chẳng thể làm gì khác hơn ngoài việc sống trọn vẹn cái khổ ấy mà không né tránh, sợ hãi, dựa dẫm, cố thay đổi, hay cố trốn chạy. Nếu em có thể sống trọn vẹn từng xúc cảm của em trong sự cô đơn một mình, và anh cũng sống với mọi điều trong anh ở hiện tại, thì chúng ta mới có thể tự giải thoát cho nhau, mới có thể bên nhau trong sự tự do, mới có thể chạm đến nhau thực sự, mới có thể biết thế nào là Tình Yêu.

Anh và em không còn là cậu bé, cô bé 23 tuổi nữa, tuổi trẻ của chúng ta đã qua, có thể hiện tại ta chẳng là gì ngoài những lo lắng, chán chường, tham lam, trống rỗng, đau khổ… Nhưng trên hết chúng ta luôn giữ ngọn lửa đó của tuổi trẻ, luôn đối diện và nhận biết mọi điều trong ta, sống thật với chúng, không phàn nàn, không phán xét, không cố sửa đổi, không lý tưởng, không sợ hãi, … ta sống với chính ta trong từng khoảnh khắc, và ta cũng chết đi trong từng khoảnh khắc, ta ý thức ta trong ánh mắt của mọi người, trong ánh mắt của người ta thương, ta chia sẻ sự thật, ta bình thản, ta vô tư, ta tự do… ta Yêu!

Tác giả: Phạm Đức Hậu

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Tại sao lại là tôi?

0

Khi còn nhỏ, như mọi đứa trẻ khác, tôi cũng hay đặt ra cho người lớn rất nhiều câu hỏi “tại sao” gây nhức óc. Tại sao bầu trời lại có những ngôi sao? Tại sao những ngôi sao lại sáng? Tại sao ánh sáng lại màu trắng? Tại sao màu trắng đó không phủ hết bầu trời đêm mà chỉ chiếu sáng li ti những chấm rất nhỏ, như ánh đèn từ một thị trấn xa xăm? Tại sao và tại sao…

Bạn cũng biết rồi đấy, đặc điểm của những câu hỏi theo kiểu như vậy là tính chất “nối đuôi nhau”: Hễ một câu được trả lời là lập tức một câu hỏi khác, có liên quan, ra đời.

Người lớn thường phát mệt bởi những câu hỏi đó. Đôi khi họ thành thật nói rằng họ không biết. Đôi khi họ bịa bừa ra một hai đáp án. Rõ ràng, bịa không phải là giải pháp khôn ngoan, vì chỉ cần đáp án xuất hiện – thì bất kể nó đúng hay sai – sẽ có ngay một nghi vấn khác được đứa trẻ đặt nối tiếp vào sau cái đáp án đó. Rốt cuộc người cáu lên: “Hỏi gì mà lắm thế!?” và nén bực bội bảo: “Sau này lớn lên sẽ hiểu!”

Thế giới này là vậy. Không có câu trả lời rốt ráo. Không có đáp số trọn vẹn, và không có chân lý sau cùng. Chúng ta bước đi giữa lằn ranh tương đối của những điều ta biết và những điều ta không biết. Nếu có người nào đó cho rằng mình đã khám phá ra bí mật sau cùng của cuộc đời, thì có lẽ người đó chỉ đang tưởng tượng. Người bình thường hơn thì an nhiên trong cái không biết của chính mình: Họ vẫn học hỏi, thay đổi để thích nghi, nhưng không kiếm tìm đáp án hoàn hảo.

Nếu bạn để ý, những em bé không đau khổ khi đặt câu hỏi “Tại sao” về thế giới. Nhưng với cùng kiểu câu hỏi đó, người lớn lại đau khổ.

“Tại sao lại là tôi?” là một trong những câu hỏi khủng khiếp nhất. Nếu sống đủ lâu, ít nhất sẽ một lần chúng ta co rúm lại bởi một cơn ‘bão tố nhân sinh’ dữ dội. Chẳng hạn, một căn trọng bệnh làm thể xác đau đớn. Tuy nhiên vấn đề sẽ chỉ dừng lại ở đó thôi nếu bạn không nghĩ: “Thôi xong rồi, mình chết đến nơi rồi, đời mình còn đâu nữa, người thân của mình ở lại biết nương tựa vào ai?…” Lúc đó, sự thống khổ nội tâm xuất hiện. Vậy là bên cạnh cái đau thể xác, bạn tạo thêm cái khổ tâm trí.

Nỗi khổ không chừng sẽ chỉ dừng lại ở đấy, nếu bạn không thêm một câu hỏi nữa: “Tại sao lại là tôi?”

Tại sao người bị bệnh là bạn? Tại sao người có bố mẹ ly hôn, gia đình tan vỡ, bị phản bội, bị đánh rớt, thi trượt, gặp xui xẻo triền miên… lại chính là bạn? Bạn truy vấn số phận. Câu hỏi đó vô tình nhân nỗi đau của bạn lên gấp bội.

Ta có thể tìm được một phần đáp án từ gen di truyền hoặc chế độ sinh hoạt bất hợp lý (bệnh tật), từ tính cách trái ngược nhau của bố mẹ (dẫn tới ly hôn), thông qua bản chất thiếu chung thủy của người bạn yêu, hay sự kém siêng năng của bạn (thi trượt)… Thậm chí, bạn có thể tin vào các giả thuyết như “nghiệp báo” từ tiền kiếp, hoặc là coi đấy là nỗi đau cần mang trên vai để được bước qua cửa thiên đàng sau khi chết.

Tuy nhiên, khi khổ tâm quá lớn thì tất cả những đáp án này đều không hoàn toàn thỏa mãn ta. Chúng chỉ mang tính an ủi. Ta vẫn tiếp tục chìm trong tuyệt vọng.

Người truy vấn “Tại sao lại là tôi” là người đang tự đào hố chôn mình. Mỗi lần nghĩ tới câu hỏi ấy là một lần anh ta ấn xẻng xuống, xúc đất lên. Đáng buồn là dù trên đầu anh ta, trời vẫn xanh, gió vẫn thổi, xung quanh cỏ vẫn tươi, mọi người vẫn sống và lũ trẻ vẫn cười… thì mắt người đào chỉ dán chặt vào cái hố mang tên Tuyệt Vọng kia mà thôi. Khi cái hố sâu quá đầu, anh ta mất hút trong đó. Anh ấy trầm cảm nghiêm trọng!

Sự thật: Ta đang có một nghịch cảnh. Vậy thôi. Không còn gì hơn nữa. Đáp án cho câu hỏi: “Sao lại là tôi?” đơn thuần chỉ là “Đó chính là hiện tại của tôi!” Đó chính là tôi! Chấm hết.

Biết chấp nhận mang cho bạn một sức mạnh lớn. Khi biết chấp nhận, bạn không còn bị kiệt sức bởi những câu hỏi. “Ừ, đó là tôi thôi”, bạn bảo, và với sự nhẫn nại, bạn làm những điều thật sự thiết thực cho tình trạng của mình.

Chấp Nhận khác hẳn Từ Bỏ. Khi từ bỏ, bạn buông xuôi hoàn toàn, phó mặc cho số phận. Bạn ngồi luôn trong cái hố đã đào và không chui ra nữa. Ngồi dưới đó chờ ngày tàn của bạn. Ngược lại, chấp nhận là xác định với mình rằng, chính nỗi đau này là nền tảng của ta, từ nền tảng đó ta sẽ bắt đầu một cuộc sống thực sự.

(Nếu ta nhìn cách người Nhật đương đầu với những thảm họa thiên nhiên và sự tàn phá của chiến tranh, ta sẽ thấy Sức mạnh của sự chấp nhận trên bình diện một quốc gia).

Khi ta ngừng cật vấn bản thân, cuộc chiến nội tâm cũng kết thúc. Lúc ấy ta có cơ hội sử dụng năng lượng tinh thần cho những điều thiết thực và tươi sáng hơn, thay vì hì hục đào hố chôn mình.

Một vài người chết rất nhanh sau khi phát hiện căn bệnh nghiêm trọng nào đó, bởi họ không chấp nhận nổi tình trạng của họ. Họ ra đi khi trong đầu quanh quẩn thắc mắc: Cớ gì ông trời gọi tên tôi chứ không phải tên người nào khác?

Câu hỏi “Tại sao” rất có rất có ích trong nhiều hoàn cảnh, ví dụ như nghiên cứu khoa học, hoặc đôi khi trong việc điều chỉnh hành vi để sống đúng đắn và thông minh hơn. Nhưng nó không dành để giải đáp vấn đề số phận.

Bạn có biết lý do vì đâu cũng với việc thường xuyên đặt câu hỏi “Tại sao?”, nhưng người lớn thì hỏi ít hơn mà khổ nhiều hơn, còn trẻ thơ thì hỏi rất nhiều mà chẳng khổ tí nào?

Câu hỏi “Tại sao” của người lớn thường hướng tới việc giải quyết vấn đề. Trong đời, có rất nhiều vấn đề không thể hiểu được trọn vẹn, nhiều tình huống phải chấp nhận, nhiều thời điểm chúng ta giật mình tỉnh ra rằng mình cần một thái độ buông xả. Giống như liên tục húc đầu vào tường, càng cố tìm đáp án cho số phận, chúng ta càng tự làm mình đau.

Người lớn thường sử dụng câu hỏi “Tại sao?” để tìm ra phương cách sau cùng hòng đạt được những thứ mà anh ta cho rằng sẽ đem lại hạnh phúc. Buồn cười thay, đó chính là cội nguồn đau khổ. Chẳng bao giờ có đáp án hoàn chỉnh cho hạnh phúc.

Trẻ con, ngược lại, không hỏi để giải quyết vấn đề. Chúng hỏi để khám phá thế giới. Để đi sâu vào bí ẩn khôn cùng của thiên nhiên: Những vì sao, bầu trời, hoa lá, sự sinh sản, sự tàn phai, các mối quan hệ con người… và tất cả những gì chúng thấy là bí ẩn. Trong câu hỏi “Tại sao” của trẻ con không có tham cầu, không tư lợi, cũng không có ý tìm kiếm tri thức để “nhét đầy túi khôn”. Đó là hồn nhiên. Đó là sự khác biệt.

Tất nhiên nói vậy cũng không hoàn toàn đúng. Trẻ con cũng có những câu hỏi “phi hồn nhiên” với tâm tư tham đắm. Nếu không, lũ trẻ đã chẳng trở thành người lớn chúng ta.

Điều quan trọng không phải những câu hỏi, mà là cái tâm hồn nhiên trong sáng. Tâm ấy thấy bí ẩn mà không phá hủy hiện tại để truy cầu lời giải cho bí ẩn. Chỉ thấy trọn vẹn mà thôi.

Tác giả: thieuletuanh

*Featured Image: cdd20

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Ngộ nhận về 49 ngày thiền

4

Thế giới này là một thế giới bình thường. Chỉ có con người chúng ta, vì mơ những điều phi thường, mà trở nên không bình thường. Thiền sư Viên Minh có nói đại ý như vậy.

Một người tu hành theo đạo Phật là một người đang trở về với cái bình thường. Và người giác ngộ là người bình thường nhất trong số những người bình thường. Phật Thích Ca có lẽ là người giác ngộ đầu tiên được ghi tên lại.

Điều bình thường thể hiện rõ trong hành trình giảng đạo của ngài. Ngài đi bộ. Đi bộ với chân trần suốt mấy chục năm trời, cho đến khi ngài qua đời ở tuổi ngoài 80, sau một đợt bệnh nặng (đi ngoài ra máu, mà tôi ngờ rằng là ung thư đường tiêu hóa) kèm theo ngộ độc thức ăn. Ngài đã đi như chúng ta đi và chết như chúng ta chết, có khi còn chết đau đớn hơn nhiều người không giác ngộ – những người đang khỏe mạnh bình thường bỗng ra đi trong một giấc ngủ ngon, ít đau đớn.

Kinh điển nói về các sự thần thông biến hóa liên quan đến cuộc đời ngài. Tôi cho rằng đó chỉ là sự thêm thắt, không có gì phi thường trong đời ngài cả. Đời sống của Phật là tận cùng của sự bình thường.

Nếu bạn có dịp đọc Đường xưa mây trắng, cuốn tiểu thuyết của thiền sư Thích Nhất Hạnh viết dựa trên cuộc đời và các lời dạy của Phật Thích Ca – bạn sẽ thấy thiền sư Nhất Hạnh lược bỏ hầu hết những gì thần thánh hóa quanh đức Phật, trả ngài về trong hình dáng một con người hòa dịu bình thường. Tuy nhiên tôi có cảm tưởng hình bóng Phật trong cuốn sách đó có gì phảng phất hình bóng của chính ngài Nhất Hạnh và phép tu thiền riêng của Làng Mai. Điều này cũng khó tránh khỏi.

Mẹ của Phật chết sau khi sinh ra ngài. Ngài lớn lên trong hoàng cung và được bù đắp bởi tình yêu từ vua cha. Ngài lấy vợ sinh con và có một cuộc sống đẹp. Tuy nhiên, ngài từ bỏ tất cả để ra đi sau một đợt (mà ngày nay chúng ta gọi là) khủng hoảng tinh thần. Rất may ngài không sống trong thời hiện đại, nếu không có lẽ người ta sẽ bảo ngài “bị hâm” và đề nghị ngài dùng thuốc chống trầm cảm.

Đức Phật đã tập Thiền Định để tìm câu trả lời. Nhưng sau khi đạt đến những tầng cao nhất của thiền định, ngài nhận ra trong nội tâm mình, đau khổ vẫn còn. Vì thế, ngài từ bỏ thiền định, và dấn thấn vào lối tu khổ hạnh: Hành hạ thể xác để tìm câu trả lời. Đây là một cách tu ngớ ngẩn và ngài đã suýt chết vì nó.

Vì thế chúng ta nên cẩn trọng với huyền thoại nói rằng đức Phật “ngồi thiền” dưới cây bồ đề 49 ngày và đạt được giác ngộ. Chúng ta nên cẩn trọng với việc truy cầu các “tầng thiền định” để đạt được giác ngộ. Chẳng có giác ngộ nào trong thiền định cả – đó là điều chính đức Phật khẳng định. Thiền định dù có xoa dịu nội tâm ta êm ái đến đâu, thì trong sâu thẳm, đau khổ vẫn còn.

Bản thân con số 49 là một con số có nhiều ý nghĩa trong văn hóa Á Đông, vì vậy, có thể nó cũng chỉ là một con số biểu tượng, được thêm thắt sau khi Phật qua đời. Phật chưa hẳn đã cần tới 49 ngày để nhận ra chân lý.

Sự giác ngộ của đức Phật được đánh dấu bằng việc ngài từ bỏ mọi nỗ lực tu hành, một phần bởi lúc đó thân thể ngài đã suy kiệt do tu khổ hạnh. Ngài được cứu sống nhờ việc sử dụng thực phẩm bình thường, bắt đầu với sữa động vật – thứ mà nhiều người tu hành hiện nay không dùng vì cho rằng nó không phải thực phẩm “thuần chay”. Ngài từ bỏ việc “thoát khổ”, một sự từ bỏ hoàn toàn. Bởi mọi hành động “thoát khổ'” đều chỉ là phản ánh của ham muốn tìm kiếm hạnh phúc. Và ham muốn kiếm tìm hạnh phúc, đến tận cùng, sẽ đem tới bất hạnh.

Nghịch lý là khi không còn nhu cầu tìm kiếm hạnh phúc, thì một thứ “hạnh phúc” tự nhiên và đích thực sẽ đến.

Không phải ngẫu nhiên mà bài kinh đầu tiên Phật giảng sau khi giác ngộ, kinh Tứ Diệu Đế, lại khẳng định rằng: Khổ là một sự thật. Một sự thật không thể chối cãi. Làm sao bạn có thể chạy trốn, làm sao bạn có thể dập tắt, làm sao bạn có thể phủ định được sự thật?

Khát khao “thoát khổ” chỉ là tham vọng của bản ngã mà thôi. Chỉ khi nào bạn chấp nhận sâu sắc rằng bạn không thể thoát được Khổ, tức bạn từ bỏ sâu sắc cái ước vọng kiếm tìm hạnh phúc, thì bình yên đích thực mới bắt đầu xuất hiện. Đó là trạng thái mà Phật gọi là Niết Bàn. Và con đường vô ngã bắt đầu hé mở.

Sự giác ngộ của Phật được gọi mởi khi ngài nghe câu chuyện của hai người lạ mặt về dây đàn: Dây đàn căng quá cũng không được, chùng quá cũng không được. Muốn chiếc đàn có âm thanh hay, thì dây đàn chỉ nên được căng ở một mức vừa phải. Chúng ta cũng vậy, nên nỗ lực vừa đủ. Đừng buông thả quá, nhưng cũng đừng nỗ lực thái quá. Ví dụ, nếu bạn đang tập thiền, bạn không cần phải ngồi thâu đêm suốt sáng hoặc cắt bớt giấc ngủ của mình để làm điều đó. Nếu điều kiện cho phép, hãy ngủ đủ giấc và sinh hoạt một cách khoa học.

Phật đã nhớ lại hình ảnh tuổi thơ của mình trong lúc đang giác ngộ. Chúng ta cũng vậy, hãy thấy ở mình một đôi mắt hồn nhiên của trẻ thơ.

Bất cứ một điều gì cao siêu đều không phải là Phật Pháp. Điều gì càng bình thường, giản dị, càng gần với Phật Pháp. Tận cùng của sự bình thường, tận cùng của sự giản dị, chính là Phật. Chẳng thế mà thiền sư Trần Nhân Tông viết:

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.”

Dịch là:

“Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ.

Chân lý nằm trong những điều bình thường. Điều bình thường chính là chân lý.  (Và phát biểu này cũng chẳng có gì mới mẻ cả. Mọi điều tôi nói trên đều đã cũ. Dù vậy, nhắc lại chúng cũng tốt thôi.)

Ngộ nhận về chân lý dẫn đến những việc đáng tiếc. Một trong những ngộ nhận dễ thấy nhất gần đây là tình trạng của ông Đặng Lê Nguyên Vũ – ông chủ của cà phê Trung Nguyên. Trong những điều ông Vũ đã làm, có những khía cạnh đáng trân trọng. Nhưng ở đây chỉ bàn tới vấn đề phương pháp.

  • Ông Vũ ngồi 49 ngày, có lẽ là bắt chước điển tích “Phật ngồi 49 ngày dưới gốc cây bồ đề.” Như đã nói, con số 49 có thể không chính xác.
  • Ông Vũ ngồi thiền và nhịn ăn. Đó là hai thứ mà Phật đã từ bỏ: thiền định và khổ hạnh. Trong quá trình giác ngộ “dưới cội cây bồ đề”, Phật Thích Ca đã ăn uống trở lại để khôi phục sức khỏe sau những ngày dài nhịn ăn, hành xác.
  • Có vẻ như sau khi ngồi thiền và nhịn ăn, ông Vũ đã khám phá ra bí mật của vũ trụ. Phật thì chẳng khám phá ra thứ gì cả. Ngài chỉ thấy rõ những sai lầm nội tâm đem đến đau khổ trong chính mình. Ông Vũ hướng tới sự siêu việt, còn Phật trở về với sự bình thường.

Đáng tiếc.

Tuy nhiên, những sai biệt ấy cũng không thấm vào đâu so với những biến đổi từng xảy ra trong lịch sử Phật Giáo, biến đạo Phật từ một chuỗi những gợi ý để người ta tự điều chỉnh các tổn thương bên trong lòng mình, thành ra một tôn giáo đa thần với nhiều bùa chú và khấn nguyện cao siêu ở nhiều nơi trên thế giới.

Như dây đàn không quá chùng cũng không quá căng, đừng trở nên tầm thường nhưng cũng đừng tìm thứ phi thường. “Tâm bình thường là đạo.”

Tác giả: Thiếu Lê Tú Anh

*Featured Image: brenkee 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Nhật ký đã thay đổi cuộc đời tôi như thế nào?

0

Nếu có gì trần trụi nhất về một con người thì tôi cho rằng đó là những trang nhật ký. Ở đó, ta chẳng cần phải nịnh bợ bất kỳ ai bằng những ngôn từ hoa mỹ, cũng không phải giấu diếm chính mình bằng những dòng viết qua loa. Vì lương tâm nhìn thấu tất cả, mọi lời lẽ vỏ bọc chẳng có ý nghĩa gì khi đứng trước con mắt tinh tường ấy.

Tôi đã bắt đầu viết nhật ký từ khi lên 10 tuổi. Nhưng đó chỉ là những dòng viết ngây ngô của trẻ thơ và không được duy trì thường xuyên đều đặn. Chỉ khi nào có sự kiện hay biến cố gì đó trong cuộc sống, tôi mới tìm đến những trang giấy để giãi bày.

Trong suốt ba năm trở lại đây, tôi bắt đầu thói quen viết nhật ký hàng ngày. Càng gần gũi với bản thân bao nhiêu, tôi càng nhận ra sự bỏ bê đời sống nội tâm đã khiến thế giới bên trong mình hoang tàn như thế nào trước kia. Những con sóng tiêu cực cuộn trào vô tổ chức, những suy nghĩ đen tối cũng thường trực lấn lướt sân chơi cuộc đời. Tôi đã từng mang một thế giới hết sức hỗn độn, xô bồ bên trong mình mà không hề hay biết. Cho tới khi giọt nước tràn ly (vấp phải những điều đau khổ dồn dập dẫn đến khủng hoảng), tôi mới nhận ra rằng thế giới kia cần được dọn dẹp và tổ chức lại.

Tôi đã dành (tối thiểu) khoảng một giờ đồng hồ mỗi ngày cho chính mình chỉ để viết ra tất cả những gì mình cảm thấy và suy nghĩ. Những trăn trở, những mâu thuẫn, những sợ hãi, những thay đổi, những ước mơ, những điều cần tháo bỏ, v.v… – tất cả đều được “chụp ảnh” lại bằng những con chữ. Càng viết, tôi càng tiến sâu vào sự đơn giản và chân thực (đến mức phũ phàng). Tôi đã từng cho rằng việc dành một giờ đồng hồ chỉ để ngồi viết (thậm chí viết những thứ vớ vẩn, trên trời dưới biển xuất hiện trong đầu) là sự quá đỗi lãng phí. Nhưng sau này tôi nhận ra nếu không làm như vậy, tôi có thể đánh mất cả một đời cho sự tăm tối và hỗn loạn bên trong. Với sự so sánh như vậy, tôi thấy mình đã có một hành động khá khôn ngoan khi đó.

Nhờ việc kiên trì viết, thế giới nội tâm của tôi có sự chuyển đổi tích cực, cùng với đó là những tín hiệu tươi mới xuất hiện ngày càng nhiều hơn trong cuộc sống. Ở nơi những điều tiêu cực được gột rửa, những hạt mầm ánh sáng bắt đầu nảy nở.

Hôm nay tôi muốn chia sẻ những lợi ích mang lại từ cuộc hành trình với trang nhật ký của mình. Có thể việc viết lách không phù hợp với tất cả mọi người, nhưng tôi cũng hy vọng rằng những gì mình chia sẻ là một cánh cửa ai đó có duyên bước vào.

1. Sống thật với bản thân

Viết nhật ký tưởng chừng là một việc dễ dàng nhưng không phải là như vậy trong giai đoạn đầu. Vì nó buộc một người phải sống thật với chính mình – đó là tiền đề để không giả dối với người khác. Lúc đầu, tôi đã rất sợ phải chạm vào những điều tăm tối bên trong lòng và không dám viết chúng ra. Nếu có viết, tôi cố gắng tìm cách nói giảm nói tránh hoặc lia bút phớt phơ cho qua.

Sau này, tôi dần nhận ra rằng những sự trốn tránh bỏ chạy ban đầu đó là hết sức bình thường, vì tôi không có nhiều sự tin tưởng ở bản thân để có thể tâm sự với chính mình. Nhưng khi biết rằng tôi được an toàn với những gì mình viết ra và rằng nếu tiếp tục nuôi dưỡng sự xấu xí bên trong thì chúng sẽ chỉ càng trở nên xấu xí, tôi bắt đầu mở lòng và chạm tay tới những khối tiêu cực đang ẩn nấp.

Vậy là, điều đầu tiên việc viết nhật ký mang lại cho tôi đó chính là sự dũng cảm và niềm tin vào chính mình. Sau đó, nó mang tới một người bạn thông thái luôn song hành cùng tôi vào những giờ phút khó khăn trong đời – lương tâm.

2. Vượt qua các cơn bão lòng

Khi có được sự dũng cảm bắt đầu cuộc hành trình rồi, tôi dần tiến sâu hơn vào trong bóng tối nội tâm. Ở đó có rất nhiều những điều tiêu cực chưa được nhận biết rốt ráo như những con thú hoang chưa được thuần phục. Việc viết giúp tôi bước đầu lôi được chúng ra ánh sáng ý thức.

Nhưng đây là giai đoạn thử thách nhất trong quá trình viết vì khi ấy tôi vừa phải chịu đựng sự dữ dội trong lòng, vừa phải tập trung để đưa cơn bão ấy trên trang giấy sao cho trung thực nhất. Có thể nói, bước này tiêu hao rất nhiều năng lượng, giống như khi đói gần chết rồi mới lôi xoong chảo ra nấu nướng vậy.

Dù sao thì, đến cuối cùng tôi vẫn không chết, mà còn rút bớt sự chết chóc ra khỏi bản thân khi những câu chuyện căng thẳng bây giờ không vùng vẫy trong đầu nữa mà ngoan ngoãn nằm trên trang giấy.

Sự cải biến tâm trạng sau khi viết thật sự như một phép màu. Có lần, tôi nổi cơn giận khủng khiếp với một người. Lúc đó, tôi phải cố gắng lắm mới kéo được bản thân ngồi vào bàn và viết ra mọi thứ đang cuộn trào, thay vì đi tuyên chiến hơn thua với họ. Sau một giờ đồng hồ trút giận qua những con chữ, tôi tự nhiên thấy nhẹ nhõm hẳn như mặt hồ không chút gợn sóng – tâm trạng đảo ngược hoàn toàn so với lúc ban đầu khiến tôi cũng phải ngỡ ngàng đến mức bật cười.

Sau này tôi dần nhận thấy rằng mọi xúc cảm hay suy nghĩ dù là tiêu cực hay tích cực đều có đỉnh điểm của nó. Nếu ta đi qua cái đỉnh đó thì sau đấy, chúng sẽ tự thoái trào nhanh chóng. Phần khó nhất là trụ vững khi cơn bão càn quét. Tôi tạm ước lượng vui như sau: Việc viết ra giúp ta có thêm điểm neo đậu nên tăng cường sự vững chãi/cứng rắn lên gấp đôi. Đồng thời, sự tàn phá của cơn bão cũng giảm đi một nửa vì ta có thêm một phần không gian hứng chịu nó (đó là trang giấy). Vậy là cuối cùng, ta mạnh lên gấp bốn lần nhờ việc viết.

3. Tháo gỡ các vấn đề phức tạp

Khi có sự bình an về xúc cảm, lý trí mới có khả năng xét đoán vấn đề một cách hiệu quả. Bên cạnh việc giải phóng và chuyển hóa những cảm xúc cực đoan, việc viết hỗ trợ cho khả năng thâu tóm và nhìn nhận vấn đề. Một chuyện khi đặt trước mắt vẫn dễ quan sát hơn so với việc cứ để nó luẩn quẩn ở trong đầu như một cuộn len bị mèo vờn.

Khi có các rắc rối nội tâm cần giải quyết, tôi thường viết ra: Mình đang không thấy ổn ở đâu? Nguyên nhân là gì? Làm sao để cải thiện vấn đề này? Hiện tại mình đang có nguồn lực gì để giải quyết chuyện đó? Mình cần sự trợ giúp của ai không? Mình sẽ triển khai nó ra sao? v.v… Tất cả những gì liên quan đến việc đó đều được viết ra như một tấm bản đồ. Tùy vào mức độ chi tiết và sâu sắc của thông tin mà tôi có thể tìm ra lối thoát cho bản thân nhanh hay chậm.

Trong trường hợp bị quá tải công việc, tôi cũng viết ra danh sách những việc cần làm và sắp xếp chúng với các mức độ ưu tiên, hay lập thời gian biểu. Từ đó nhìn được mối quan hệ của các công việc và có thể bố trí chúng sao cho việc nọ hỗ trợ được việc kia, giảm tải sự hao phí năng lượng không cần thiết. Các kế hoạch, dự án gì cũng đều được viết xuống, và được theo dõi và cập nhật thường xuyên.

Từ đây, việc viết không chỉ giúp tôi đơn giản hóa vấn đề gặp phải mà còn tăng cường khả năng chịu trách nhiệm cho cuộc sống của chính mình. Tôi tự làm giám đốc của mình vậy.

4. Tăng cường khả năng diễn đạt và thấu hiểu chính mình

Viết là cách để não bộ được vận động một cách chủ động. Nó như một quá trình điêu khắc một tác phẩm nghệ thuật là những tư tưởng hay xúc cảm bên trong lòng. Càng viết nhiều thì sự sắc bén của trí não càng được tôi luyện. Ta chạm tới được những diễn biến tâm trạng phức tạp và vi tế hơn.

Việc giải phóng và thể hiện xúc cảm hay suy nghĩ là một việc rất quan trọng giúp cho thế giới nội tâm không bị quá tải hay rơi vào trạng thái mập mờ khó nắm bắt, từ đó dẫn tới việc ta khó cảm thấy thỏa mãn, hài lòng. Càng diễn đạt chính xác bản thân bao nhiêu, ta càng thấy tự tin vào chính mình bấy nhiêu. Chuyện này cũng giống như càng thông thạo đường đi lối lại ở một khu vực nhất định, ta càng cảm thấy an toàn khi di chuyển ở nơi đó.

Có thể trong một lĩnh vực chúng ta không giỏi, nhưng khi ý thức được điều đó, ta tập trung hơn vào những gì mình có, những gì trong giới hạn nắm bắt của bản thân. Từ đó, ta không bị rơi vào trạng thái quá sức khi phải cố với tới một thứ xa xôi, không bị thất vọng đau khổ.

Trên đây là những điều cơ bản nhất và ích lợi nhất việc viết nhật ký mỗi ngày đã đem lại cho cá nhân tôi. Ngoài ra, nó còn giúp tăng cường sự tập trung, tìm ra xu hướng vận động của bản thân, nắm bắt được các ý tưởng sáng tạo giữa cơn mưa tư tưởng và yêu thương chính mình. Tất nhiên, sự tích lũy các lợi ích trên chỉ chảy ra khi ta viết đều đặn và đủ lâu. Tôi vẫn từng tự nhắc mình rằng: Không có cái cây nào trở thành đại thụ chỉ sau ba ngày.

Có hai điều tôi cho là khó khăn nhất trong quá trình viết:

  1. Ngại, lười, trì hoãn vì việc viết chưa thành thói quen. Chuyện này là rất bình thường ở giai đoạn đầu, cần nỗ lực hơn một chút để ghim được việc viết vào trong đời sống. Thường thì cần khoảng tối thiểu hai tuần liên tục viết là sẽ đi qua được cảm giác cản trở.
  2. Càng viết càng rối rắm, luẩn quẩn, bế tắc. Đây cũng không phải là chuyện hiếm gặp. Có hai cách giải quyết: Hoặc là ngừng lại ngay khi bắt đầu cảm thấy rối, hoặc là viết đến tận cùng cái rối. Chuyện này sẽ mở ra nhiều những suy nghĩ và xúc cảm ở tầng sâu hơn đòi hỏi phải tập trung và bình tĩnh hơn. Thường thì đến cuối cùng, các luận điểm sẽ tự triệt tiêu nhau nếu ta đi đủ sâu. Nhiều lần như vậy, ta sẽ thấy chúng tự tan khi vừa xuất hiện.

Vậy là sau khi đi qua cả một quá trình viết lách và nhìn lại, tôi thấy bây giờ mình đã trở thành một con người khác đỡ tiêu cực hơn xưa rất nhiều. Hạnh phúc không tự nhiên mà có, con người cần sự nỗ lực rèn luyện, thay đổi và cải tiến chính mình để xứng đáng với hạnh phúc ấy. Viết là một cách tôi đã lựa chọn và nó đã đem lại những lợi ích không nhỏ. Sau khi đi qua trải nghiệm ấy rồi, tôi muốn chia sẻ với mọi người công cụ này, hy vọng nó sẽ mang lại lợi lạc cho ai đó dù là trong khoảnh khắc ngắn ngủi hay trong cả một quãng đường dài.

“When you learn how to suffer, you suffer much less.” – Thích Nhất Hạnh

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

*Featured Image: JeongGuHyeok

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2