16.3 C
Da Lat
Thứ Tư, 27 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 104

Về Huế đi em! Huế buồn muôn thuở

10

(1191 chữ, 4 phút đọc)

Sáng nay Đà Lạt trầm mình trong mưa. Tôi bước vội vã trên con đường đất đỏ dẫn lối từ nơi trái tim cư ngụ ra thế giới bên ngoài, bỗng nghe tiếng bước chân mình u sầu đang giẫm trên sỏi đá, âm thanh nào cất lên khiến trái tim mình ủ dột, bỗng thấy nhung nhớ, bỗng vội vàng che giấu những yêu thương trở về trong câu hát: “Bóng dáng một người, biết giờ ở mô, mà tìm không thấy, nhớ những năm xưa, tà áo tím hồng, tạ từ mấy câu…”

Huế ơi, tôi nói rằng tôi sẽ trở về, nhưng năm tháng lạnh lùng nào đã vội bôi xóa câu thề. Huế ơi, trái tim người em gái tha hương bước chân lên chuyến đò viễn xứ vẫn còn trôi dạt lênh đênh. Huế ơi, bao lần nhắc tên Huế là bấy nhiêu lần nhớ thương. Huế ơi, Huế buồn muôn thuở, cũng như em.

19 năm Huế nắm giữ linh hồn tôi, đọc thuộc lòng tên tôi trên từng con phố nhỏ. Những ngày tan trường e ấp nép sau lưng ai, tà áo dài trắng tinh khôi với nụ cười duyên dáng thẹn thùng. Những chiều bước đi giữa an nhiên đời thường, lắng nghe tiếng chuông chùa ngân vọng từ xa, tôi nhẹ nhàng che giấu chút ít mảnh hồn đa mang của cô thiếu nữ, rồi bỗng trầm mặc lạ thường. Những chiều mưa lang thang ướt trọn mái đầu tìm đường dẫn lối vào quán cà phê thân thuộc, lặng nhìn thành cổ trầm mình giữa sương khói bụi đời mà vẫn luôn giữ được nét trầm lắng, thanh tú. Càng sống lâu hơn những ngày được sống, Huế càng thơ mộng và trưởng thành, phô ra cái nét riêng rất Huế giữa đất trời thênh thang.

Huế khoác lên mình lối kiến trúc cổ kính. Đó là những thành quách, cung đình, đền miếu, lăng tẩm. Huế giàu có kếch xù với khối tài sản kho báu kiến trúc đồ sộ, để những đứa con được sinh ra từ Huế như tôi luôn thấm đẫm trong máu mình sự tự hào, để rồi đã bao người trưởng thành lớn lên và lạc chân đến vùng trời xa lạ, vẫn nuôi dưỡng trong mình một ngày không xa được trở về.

Huế được ưu ái với cái tên tha thiết khác là xứ thơ, đã từng được nhắc đến nhiều trong thơ văn và âm nhạc Việt Nam vì nét lãng mạn và thơ mộng tự nhiên. Chính ở nơi ấy, tâm hồn thi sĩ trong tôi nhen nhóm được thắp lên, bước chân của kẻ đa cảm trong giây phút đầu chập chững in dấu trên đường đời.

Huế, trong cơn mưa bụi lây rây, làm sao bước đi giữa những làn mưa mỏng như sương khói ấy mà không khỏi thấp thỏm lo âu. Huế ngày mưa, có ướt áo vai ai? Nhưng rồi đã quá quen với sự bình thản mang trên vai, thấm ướt làn tóc rối, em gái Huế mong manh hao gầy chợt hiện thấp thoáng trong thơ ca của biết bao chàng nghệ sĩ trót đắm say. Huế muôn thuở vẫn thổn thức trong lòng kẻ lang thang giàu xúc cảm, ôm mộng thẩn thờ chiều hoang biền biệt.

Đến với Huế để được một lần nằm trải mình trên thảm cỏ trước cột cờ Phu Văn Lâu nhìn cánh diều ai thả trôi trên nền trời mà kẻ thưởng ngoạn đang dõi theo. Đến với Huế để một lần được lang thang khắp kinh thành bằng những vòng quay xoay tròn bánh xe xích lô. Quần thể di tích cố đô với khu Đại nội tái hiện cho người khách ghé thăm tường tận hơn một mảnh nhỏ đời sống xưa của các vua chúa. Lăng tẩm và đền miếu là những gì gần gũi thân thiết nhất mà bạn còn có thể cảm nhận được với tình yêu lịch sử của các vua chúa. Đến với Huế để một lần bước qua cầu Trường Tiền bắc ngang dòng sông Hương thơ mộng đã bao lần chứng kiến những biến cố thăng trầm của đất nước trải dài theo năm tháng, để một lần ghé thăm một trường Quốc Học đã từng đào tạo ra biết bao thế hệ anh tài của nước Việt, và vẫn còn đang tiếp tục làm tròn sứ mệnh đó.

Với nghệ thuật ẩm thực còn lưu giữ hơn cả nghìn món ăn, có cả những món ăn ngự thiện của các vua chúa triều Nguyễn. Cao lương mỹ vị được bày vẽ công phu tỉ mỹ. Huế là cái nôi của nghê thuật ẩm thực đẹp mắt và thưởng thức tinh tế. Những đêm lênh đênh trên dòng Hương Giang với những ngọn đèn hoa đăng để thả muộn phiền trôi sông, lắng nghe một giọng hò ai từ bến thuyền cất lên thứ âm điệu tươi tắn trang trọng chỉ có duy nhất ở Huế. Chỉ có người Huế với giọng Huế mang đậm sắc thái địa phương mới thổi hồn vào được thứ âm nhạc độc nhất. Đó chính là Ca Huế. Huế còn là nơi lưu giữ cái nôi nghệ thuật của âm nhạc cung đình có nguồn gốc từ thời Lê. Nhã nhạc cung đình và vũ khúc cung đình, một nét nghệ thuật cổ truyền được lưu giữ từ thời vua chúa, vẫn đang khẳng định nét đặc trưng riêng của người Việt trên toàn thế giới. Ôi bao nhiêu điều đáng yêu đáng quý vẫn còn nằm sừng sững nơi đó mà đứa con tội đồ trót tha hương không dám dùng thứ ngôn từ mộc mạc khô cằn này để gợi nên.

Có lẽ đối với những vị khách lữ hành phương xa, Huế được nhắc đến với hình ảnh danh lam thắng cảnh nổi tiếng đang thu hút bạn bè du lịch gần xa. Nhưng đối với riêng tôi, Huế là tình yêu, là trái tim của một người con tha phương, của em gái Huế mơ mộng đã trót lỡ chạm tay vào những yêu thương nên ích kỉ ôm trọn vào lòng cả một bầu trời nhung nhớ.

Cứ mỗi lần về, tôi không thấy Huế thay đổi gì nhiều. Chỉ là cầu Tràng Tiền nổi bật hơn với nhiều màu sắc, chỉ là tà áo dài tung bay trên những hẽm phố không còn gợi nhớ sắc tím thủy chung trong thi ca xưa… Nhưng Huế trong tôi vẫn mãi là “Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được. Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư.”

Lần trở về nào cũng xôn xao nôn nao của một tuổi hoa mộng đã trôi qua. Lần trở về nào cũng là lần đầu bước ra đi. Vẫn nước mắt ngắn dài hát thầm “Một sớm mưa nhiều tôi rời thành xưa. Sông nước tiêu điều nhỏ lệ buồn đưa…”Lần trở về nào vẫn là Huế buồn muôn thuở. Và em, cũng như lần xa nhau nào vẫn là “Anh ơi! Huế bây giờ buồn lắm không anh?”

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: vanhoadoanhnghiepvn

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Thay đổi đến từ đâu giữa thế thời đảo điên?

0

(873 chữ, 3 phút đọc)

Hãy nói cho tôi biết, bạn có phải là một người quan tâm đến những vấn đề chung của cộng đồng như môi trường, giáo dục, kinh tế, xã hội,… hay không? Nếu có, ắt hẳn bạn đã có một cái nhìn nhất định về thời đại mà mình đang sống và đã từng nghe không ít lời ong tiếng ve về nó. Người ta bình luận, người ta phân tích, người ta mổ xẻ thậm chí có kẻ nguyền rủa, chửi bới. Có vẻ như con người chưa bao giờ biết hài lòng với hiện tại. Có thể coi đó như một động lực thúc đẩy thế giới phát triển về mọi mặt nhưng nó cũng là tác nhân khiến cho chúng ta mỗi ngày phải nghe, xem, đọc những lời chửi bới của thiên hạ đến mỏi mệt tâm trí, một món ăn tinh thần mà chúng ta đã chán ngán.

Dễ cũng đến vài trăm lần tôi nghe người ta than thở về cái gọi là “thời thế đảo điên”, rồi thì “thời mạt vận”, vân vân và vân vân. Điều ấy cũng đã từng khiến tôi trăn trở rất nhiều từ thuở tập tành quan tâm thế sự. Nhưng đến hôm nay, tôi cảm thấy có một chút gì đó nhạt nhòa trong cái cách mà mình bị tác động bởi những vấn đề chung của cộng đồng, không còn mãnh liệt như xưa. Phải chăng mình đang dần trở nên vô cảm hơn, hoặc cũng có thể, cái tăm tối của xã hội mà mình đang sống mỗi lúc một dày đặc hơn và nó khiến cho mình dần chìm vào tình trạng quen với bóng tối, như những đệ tử phái cổ mộ trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Có vẻ như con người chúng ta khi trưởng thành trong cái gọi là “thời thế đảo điên” ấy đã vứt bỏ dần cảm xúc của mình, biến sự vô cảm thành một cái gì đó thật là thời thượng, một thực trạng không thể tránh khỏi. Không có một thứ đề kháng nào để cho người ta có thể chống lại con virus vô cảm đang từng ngày ăn mòn tâm hồn mình.

Chỉ có một cách duy nhất là kiểm soát sự quan tâm, tập trung vào chính mình, thu nhỏ dần cái hiện thực mà đang khiến bạn hao tâm tổn trí. Chẳng phải người ta vẫn thường nói rằng muốn thay đổi thế giới, trước tiên hãy thay đổi chính mình đó sao?

Thế giới thông tin rộng mở ngày hôm nay ngoài việc làm cho người ta hiểu biết nhiều hơn thì cũng gây nên những hệ lụy trên con người. Nó gieo rắc nhiều hơn nỗi sợ hãi. Người ta lo sợ về mọi thứ từ không khí mình thở, cốc nước mình uống, chỗ mình ngồi, nơi mình ngủ, những người mình tiếp chuyện… Dần dà bạn sẽ cảm thấy rằng sống lạc quan trong thời buổi này đang mỗi lúc một trở nên không tưởng. Đôi lúc bạn chỉ muốn đập bỏ đi những phương tiện thông tin quanh mình và sống vô tư như một con thú hoang trên đồng cỏ, chỉ cảnh giác với kẻ thù (đương nhiên, loài nào mà chẳng có kẻ thù, con người thậm chí còn trở thành kẻ thù của chính mình.)

Một hệ lụy nữa của cuộc sống ngập ngụa với thông tin đó là nó khiến cho người ta sống quá nhiều trong một thứ hiện thực phì đại vượt mức cho phép mà quên trở về với thực tại quanh mình. Người ta có thể mãi bàn về một bãi rác đang bốc mùi ở đâu đó mà quên dọn đống rác ngay trong vườn nhà mình, chuyện đó hoàn toàn có thể xảy ra và khi chúng ta nhận ra nó, hãy tin tôi, nó thật sự kinh khủng không kém.

Đến đây, để cho không khí của bài viết này bớt nặng nề hơn trước khi kết thúc, có lẽ chúng ta cần một chút âm nhạc. Tôi rất thích một ca khúc trong sự nghiệp âm nhạc vĩ đại của ông vua nhạc pop Michael Jackson, ca khúc Man in the mirror. Nó có một đoạn như thế này:

“I’m starting with the man in the mirror
I’m asking him to change his ways
And no message could have been any clearer
If you wanna make the world a better place
Take a look at yourself and then make a change.”

Hiện tại tôi đang nghĩ, phải chăng mình nên quan tâm đến nhân loại này, cộng đồng này một chút, vừa đủ để không phải tự cách ly mình với thế giới. Sau đó, trở lại ngay với thế giới nhỏ bé quanh mình, thế giới rộng lớn bên trong tâm hồn mình, nội tâm mình và không ngừng nhắc nhở bản thân rằng mình cũng là một phần của thế giới. Vậy thì chúng ta phải thay đổi cái gì đây? Tôi biết và bạn cũng biết rồi, việc còn lại hoàn toàn nằm ở ý chí của mỗi người. Và sẽ thật tuyệt vời nếu tất cả đồng lòng.

Tác giả: Nguyễn Tài

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

[THĐP Translation™] 7 câu hỏi giúp một người cởi mở đầu óc từ Tiến sĩ Jordan B. Peterson

0

7

(558 chữ, 3 phút đọc)

Có thể bạn cũng nhận thấy rằng chúng ta gần đây đều đã bị Tiến sĩ Jordan Peterson thu hút tới mức mê say.

Ông quả là một nhân vật rất đáng nể.

Peterson là một nhà tâm lý học lâm sàng người Canada, là người từ khoảng hơn một năm qua đã bứt lên tuyến đầu trong lĩnh vực ý thức trực tuyến tập thể (collective online conciousness) với hàng loạt bài giảng và video được ông đăng tải trên YouTube.

Một cách chân thành nhất, tôi có thể nói rằng những bài giảng, thông điệp và niềm đam mê mạnh mẽ của ông đã truyền đi vô vàn cảm hứng. Ông là một thiên tài uyên bác, có một hiểu biết hết sức sâu sắc về việc làm thế nào để sống một cuộc sống tốt đẹp.

Nếu bạn đang rất mong muốn được tìm hiểu thêm về Peterson, gần đây chúng tôi đã đăng một bài viết chia sẻ về 40 phương châm cuộc sống giá trị từ Tiến sĩ Jordan Peterson, và bài viết này cũng dẫn link đến những video hay nhất của ông. Chúng tôi cũng đã đăng một bài về những điều được Peterson xem là lối thực hành tâm lý hữu ích nhất mà một người có thể làm, và một bài về 35 nguyên tắc cốt yếu từ Tiến sĩ Peterson để đạt hiệu quả tối đa trong công việc và gia tăng năng suất. Sẽ thật đáng tiếc nếu bạn bỏ qua những bài này.

Jordan Peterson được hỏi trên Quora:  Những câu hỏi nào có khả năng khơi gợi suy nghĩ nhất mà một người có thể tự đặt ra cho bản thân. Câu trả lời của ông bao gồm 7 câu hỏi dưới đây.

Tôi khuyến khích bạn suy ngẫm về chúng, viết gì đó về chúng, thậm chí thêm chúng vào danh sách những mục tiêu của bạn trong Chương trình Tạo tác Bản thân. Khi bạn có được câu trả lời rõ ràng đầy đủ cho những câu hỏi này, bạn sẽ trở thành một phiên bản mạnh mẽ hơn nhiều của chính mình.

  1. Làm thế nào tôi có thể hành động nhất quán để giảm thiểu cái ác trên thế giới?
  2. Làm thế nào tôi có thể không ngừng cải thiện chất lượng các hành động mà tôi lặp lại mỗi ngày (khi mà chúng hình thành nên gần như toàn bộ cuộc sống của tôi)?
  3. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi chỉ nói ra những gì tôi tin là đúng?
  4. Điều gì khiến tôi quan tâm đến một số thứ chứ không phải những thứ khác (vì dường như đây không phải là một lựa chọn tự nguyện)?
  5. Tại sao khoa học hầu như không dạy chúng ta về ý thức?
  6. Làm thế nào tôi có thể trở nên đủ mạnh mẽ để là người hữu ích trong cuộc khủng hoảng?
  7. Tôi hiện đang làm được gì để đem lại thêm được nhiều ý nghĩa và chất lượng nhất cho cuộc sống của mình? Những điều này – bằng cách nào tôi có thể làm được chúng nhiều hơn nữa (và làm ít đi những gì khiến những ý nghĩa và chất lượng ấy bị giảm bớt)?

Tác giả: Jon Brooks – Jordan B. Peterson
Dịch: Sang Doan
Review: Dương Tùng

Featured image: Daniel Hambury—Evening Standard/eyevine/Redux

📌 Ủng hộ dịch giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Phan Chu Trinh đã “ra đi tìm đường cứu nước” như thế nào

0

(3683 chữ, 11 phút đọc)

Đất Quoảng Nôm chưa mưa moà đoã thắm
Rượu Hồng Đồ chưa nhắm moà đoã say.

Câu hát của miền đất dễ thương, có lẽ đất linh nên sinh ra nhiều người hào kiệt. Cái tiếng nói của người Quảng Nôm, chân chất, dễ thương, làm cho một người miền Tây Nam Bộ như tôi mê mẩn. Quảng Nôm, mặc dù yêu thầm nhớ trộm đã lâu, nhưng cũng chưa có dịp nào về thăm cho thoả, nhất là đi để thấy nơi đó núi sông linh thánh thế nào mà sinh ra nổi Phan Chu Trinh, một người đi trước thời đại hơn trăm năm lẻ.

1. Thi làm quan, thi từ quan, thi phá quan

Phan Chu Trinh sinh năm 1872, người Quảng Nôm, cha theo nghiệp võ, bên ngoại thì nghiệp văn. Thuở nhỏ ưa sự tân kỳ, giỏi kiêm văn võ, cùng bôn ba với cha trong phong trào Cần Vương kháng Pháp. Lớn một chút đi học xa, làm quen với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp cùng nhiều thanh niên tiến bộ, các ông đều có chí hướng kinh bang tế thế.

Năm 1901, đi thi ở Huế đậu phó bảng. Ông Nguyễn Sinh Sắc cũng thi đậu phó bảng chung khoá này. Năm này, ông Phan Chu Trinh đã ba mươi tuổi, em bé Ngô Đình Diệm thì vừa ra đời ở Quảng Bình.

Phó bảng Trinh được bổ nhiệm làm chức quan nhỏ nhỏ trong bộ Lễ, là bộ chuyên về lễ lạc nghi thức. Trong thời gian này, cụ Trinh cùng các bạn đồng liêu tiến bộ đọc được các sách tư tưởng mới của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Montesquieu, Rousseau và nhiều sách khác. Cụ vốn chán ghét lối học tầm chương trích cú kiểu “sách có câu” của Nho học; bén rễ với lối học phân tích và tổng hợp của Tây phương, từ các sách vở đó rút tỉa được nhiều tư tưởng trị quốc khác hẳn với kiểu cai trị Nho giáo đạo đức giả và “quan phụ mẫu” đương thời. Cùng thời điểm đó, tức năm 1904, hai bạn học Cáp và Kháng cũng đậu tiến sĩ và ra làm quan.

Đem những tư tưởng mới trao đổi với nhau, các ông dần nhìn thấy con đường sáng để làm cho dân tộc độc lập, đất nước giàu mạnh, đó là con đường đấu tranh bất bạo động, đầu tiên là mở mang đầu óc dân chúng, kế đó truyền cho họ ý thức tự lực tự cường, và sau là giúp dân đời sống ấm no qua các phương pháp làm ăn mới mẻ. Sau các ông thống nhất từ quan một lượt, để đi khắp nơi tìm cách vận động cho công cuộc của mình.

Bình: Cách đây một trăm mười năm mà các ông đã đả-thông được tư tưởng, từ bỏ con đường quan lại, tìm đường thúc đẩy dân chủ nhân quyền, thật là đáng mặt những đàn ông nước Việt dám nói “không để càn khôn tự chuyển dời” lắm chớ!

Năm 1905, các ông bàn nhau Nam Kỳ là xứ Indochina, giao thoa đủ thứ văn minh Tây Ta Hoa Ấn, lại được người Pháp đầu tư xây dựng, dân chúng tiến bộ, được cả hai ghế trong quốc hội Pháp, nên quyết đi tới nơi coi cho biết, và sẵn tìm thêm nhiều người có chí hướng tiến bộ để trao đổi và kết bạn.

Cuốc bộ tới Bình Định, gặp trường thi tú tài (?), mấy ông đăng ký thi với tên giả và làm thơ làm phú nội dung “nhạy cảm” và có chút “phản động”, sau đó nộp bài. Ra khỏi trường thi, cả ba cười nắc nẻ rồi dong tuốt vô Nam du hý, giao kết được thêm nhiều thanh niên tiến bộ.

Bình: Đã thi đậu làm quan trong triều, văn tài không phải tệ, kinh sử cũng thuộc làu, lại dùng những thứ sử kinh của Nho giáo mà đùa bỡn bọn môn đồ Khổng Mạnh, dùng thơ phú chê cười đám mọt sách chỉ biết mê mải lợi danh, thực là thâm thuý mà cũng đắng cay lắm. Chẳng khác gì ngày nay viết một bài luận dùng rặt câu chữ của ông Mác ông Minh để mà bỉ bôi đám tham quan ô lại trong nước. Cái khóc cái cười của người trí thức chính là nhịp thở của non sông vậy!

2. Tìm đường cứu nước loanh quanh

Từ miền Nam, các ông trở ngược ra Bắc, đi hết tỉnh này đến tỉnh kia, kết giao được thêm nhiều trí thức có hùng tâm dũng chí. Trong thời gian này, được người giới thiệu Phan Bội Châu và phong trào của ông nên chí sĩ Phan Chu Trinh đi thẳng sang Quảng Đông – Trung Quốc để tìm Phan Bội Châu bàn soạn con đường lo cho dân nước. Khi gặp nhau hội đàm, hai người đều tâm đắc chí hướng canh tân đất nước khởi nguồn từ dân trí, và coi nhau như bạn hữu thân tình. Rồi chí sĩ Phan Bội Châu mời ông sang Nhật để xem cuộc cải cách của Thiên hoàng Minh Trị, đã làm thay da đổi thịt đất nước như thế nào.

Tuy nhiên, khi Phan Chu Trinh đến Nhật, thì bắt đầu nảy sinh một số quan điểm bất đồng với Phan Bội Châu. Phan Chu Trinh chủ trương bất bạo động và dân chủ, còn Phan Bội Châu thì có xu hướng nhờ Nhật viện trợ và huấn luyện quân sự để khởi nghĩa vũ trang, Phan Bội Châu cũng đeo đuổi chế độ quân chủ với việc lập hoàng thân Cường Để làm vua . Mặc dù vậy, Phan Chu Trinh vẫn ủng hộ chương trình đưa thanh niên sang Nhật du học của Phan Bội Châu. Ở Nhật vài tháng thì chí sĩ Trinh về nước, sau khi đã tham quan tường tận cuộc Duy tân ở Nhật.

Bình: Người xưa hết sức đáng nể, trong nước đi bộ xuôi nam ngược bắc đã là kỳ công, mà muốn đi nước ngoài liền đi được ngay. Họ không cần tiền bạc đi đường hay sao, trong khi đã từ quan, không có bổng lộc, cũng chẳng có tham ô, tiền ở đâu mà ra? Là bởi vì, nhờ các bạn có cùng chí hướng, cũng là người hào sảng, các chí sĩ đi tới đâu thì nơi đó tiếp đón ăn ở, khi đi khỏi thì lại tương trợ thêm lộ phí, người nào có điều kiện thì tương trợ nhiều. Cứ như thế mà đi, dù trong hành trang lúc khởi đầu không có mấy quan tiền. Sử sách không nói rõ chi tiết này, cũng bởi đây là chuyện tế nhị, mà người Việt lại là dân tộc siêu khách sáo. Chỉ có những người phi thường mới vượt được cái mặc cảm nhỏ để lo việc lớn mà thôi!

3. Tìm ra đường rồi, về thực hiện và bị ở tù

Năm 1906, nhận thấy mình đã tìm ra được con đường đúng đắn tại Nhật, chí sĩ Phan Chu Trinh cùng các bạn Kháng và Cáp vạch định ra các bước thực hiện chương trình canh tân đất nước như sau:

  • Vận động nhà cầm quyền Pháp cải cách nền chính trị Việt Nam, bỏ chế độ quân chủ, áp dụng chế độ quân chủ lập hiến, dần đi đến nền cộng hoà cho An Nam
  • Nâng cao dân trí: Bỏ Nho giáo, du nhập Tây học; bỏ các hủ tục, du nhập văn minh phương Tây…
  • Phổ biến và hun đúc tinh thần dân chủ: Đề cao phẩm giá bản thân mỗi con người, tinh thần tự lực tự cường, trách nhiệm với cộng đồng, ý thức về sự bình đẳng và tinh thần tự do…
  • Phát triển đời sống vật chất của người dân: Nhập các thiết bị hiện đại, du nhập các tiến bộ khoa học kỹ thuật, mở các nghiệp đoàn và công đoàn, đề cao sản xuất…
    Khẩu hiệu của các ông là: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.”

Bình: Vì sao mà “dân sinh” lại đặt sau cùng? Con người sống, cái đầu có thể ngu nhiều chục năm rồi mới khôn, cái óc có thể hèn nhiều năm rồi mới dũng. Ngu dốt và hèn nhát thì vẫn sống, nhưng cái bao tử không thể nhịn đói mấy ngày mà người sống khoẻ. Dân trí dân khí tệ lậu làm cho người ta nghĩ rằng: ăn no rồi tính sau. Cho nên, đem chuyện dân chủ nhân quyền ra mà nói với kẻ bình dân hoặc với kẻ trí thức đói khát, thì cũng bằng thừa. Con đường của các ông không sai, nhưng nó lý tưởng quá! Người Việt thì cần phải trần trụi và “mì ăn liền” thì may ra. Cho nên, chuyện dân sinh vẫn cần đặt song song với chuyện khai dân trí và chấn dân khí, hoặc ít ra phải làm sao cho dân tin là như thế. Mặc dù vậy, người trí thức đủ tầm vóc để hiểu và ủng hộ các ông không phải là ít.

Các thành tích của phong trào Duy Tân rất đáng kể. Chỉ trong một năm bắt đầu tháng 06/1906 – 07/1907, từ tỉnh Quảng Nam quê nhà của Phan Chu Trinh, phong trào lan ra khắp xứ Trung Kỳ, lan vào tận Sài Gòn, ảnh hưởng tận Hà Nội. Cụ thể:

  • Phan Chu Trinh viết thư cho Toàn quyền Đông Dương Paul Beau để yêu cầu nhà cầm quyền Pháp cải cách chính trị cho An Nam
  • Rất nhiều trường học và thư xã để truyền bá Quốc ngữ và tiếng Pháp thành lập. Lối học tầm chương trích cú bị bài bác, thay vào đó là lối học diễn dịch và quy nạp của phương Tây
  • Nhiều hội thương nghiệp và nghiệp đoàn được thành lập
  • Người dân Việt mặc quần tây và áo sơ mi, cắt tóc ngắn hiện đại, cắt móng tay… trở nên phổ biến là bắt đầu từ thời kỳ này
  • Người dân ý thức được quyền lợi của mình nên ở Trung Kỳ nổ ra phong trào chống sưu thuế rầm rộ từ giữa đến cuối năm 1907 (năm này vua Thành Thái bị đi đày, thượng thư Ngô Đình Khả từ quan, chú Diệm bảy tuổi, đi học và chăn trâu cắt cỏ)
  • Phan Chu Trinh được mời ra dạy tư tưởng ở Đông Kinh Nghĩa Thục (có gặp và quen biết ông Nguyễn Hữu Kha bố của Thiều Chửu, lúc này Thiều Chửu nhẽ vừa biết đi biết nói)
  • Nhiều hội đoàn và phong trào khác trong và ngoài nước cũng liên kết và ủng hộ phong trào Duy Tân

Phong trào Duy Tân tới đầu năm 1908 chưa tròn hai năm, chỉ gieo chưa gặt, thì tất cả lãnh đạo phong trào cùng Phan Chu Trinh đều bị Pháp bắt. Tháng 04/1908, Phan Chu Trinh được một vé ra đảo, là đi đập đá ở Côn Lôn, chung thân khổ sai!

Bình: Giả dụ thời cụ Trinh có facebook có lẽ phong trào Duy Tân sẽ thành công không tưởng, bởi trong bối cảnh mọi thông tin chỉ bằng thư tay và truyền miệng, mà cuộc Duy Tân trong quãng thời gian ngắn ngủi đã lan rộng khắp nước, ảnh hưởng vô cùng sâu sắc với quốc dân. Thì tại sao bây giờ phương tiện công nghệ tân kỳ, ngồi nhà cũng tai nghe mắt thấy chuyện bên Tây, mà chẳng có nổi phong trào cải cách nào có sức lan toả vào xã hội bình dân? Dân bây giờ có lẽ nào tệ hơn dân một trăm năm trước hay sao?

4. Lưu vong hay tìm đường cứu nước lần hai

Phan Chu Trinh ra đảo được hai năm, tuổi vừa ba mươi tám. Trong thời gian này, dư luận An Nam sôi sục. Hội Nhân quyền Hà Nội, các nghiệp đoàn, thương hội, công đoàn, báo chí, học sinh, nhân sĩ trí thức… liên tục tổ chức biểu tình, bãi công, bãi thị, diễn thuyết, ký thỉnh nguyện thư… để đòi thả Phan Chu Trinh và các bạn. Tình hình xao động đến cả nước Pháp, các chính khách thân thiện ở Pháp và Hội Nhân quyền Pháp cũng vào cuộc đấu tranh kiến nghị với chính phủ Pháp trả tự do cho Phan Chu Trinh.

Bình: Có ai liên tưởng tới Nelson Madenla và tù nhân lương tâm nào khác không?

Trước sức ép dư luận, Pháp phải trả tự do cho Phan Chu Trinh vào tháng 08/1910 và đem ông về quản thúc tại Mỹ Tho. Sau đó nhận thấy uy tín của Phan Chu Trinh mỗi lúc một cao, sợ sinh biến, nên buộc ông phải lưu vong sang Pháp, tin tức này công khai nhiều người biết.

Trong một diễn biến khác cùng khoảng thời gian này, Nguyễn Sinh Sắc làm quan huyện bị triều đình sa thải. Sợ các mối thù hằn cũ sẽ đến báo oán khi không còn quyền lực, ông Sắc dắt Nguyễn Sinh Coong bỏ quê chạy vào Nam Kỳ trốn tránh, thay tên đổi họ sống lang bạt rày đây mai đó. Khi biết người quen cũ là Phan Chu Trinh đang ở Mỹ Tho và sắp được đi Pháp, ông Sắc đã dắt con tới bái kiến và gởi gắm, dạy Coong kêu Phan Chu Trinh bằng “bá phụ đại nhơn.” Sau đó, ông Sắc tiếp tục lang bạt kỳ hồ, cuối cùng lập gia đình khác và chết già tại Cao Lãnh.

Năm 1911, Phan Chu Trinh sang Pháp, có con trai là Dật theo cùng. Cùng năm đó, có một bức thư viết bằng tiếng Pháp, gởi cho tổng thống Pháp, nội dung đại khái xin được học ở Pháp, ký là Nguyễn Tất Thành, đề năm 1911. Tất nhiên, Thành chính là Coong, cái tên mới này là kỷ niệm cuối cùng của ông Sắc và Coong. Chuyện Nguyễn Sinh Coong có đi chung với Phan Chu Trinh hay tự đi một mình chưa xác định, nhưng chắc chắn một điều là khi sang Pháp thì Coong nương nhờ chí sĩ Phan Chu Trinh một thời gian dài, xem ông như thầy như cha. Và, không có chuyện Coong “ra đi tìm đường cứu nước” như người ta vẫn thổi phồng.

Một bức thư tay mà Coong gởi cho chí sĩ Phan Chu Trinh, lời lẽ rất tôn kính và có chút xíu nhõng nhẽo:

H1

Hy Mã nghi bá đại nhơn.
Cháu kính chúc Bác, em Dật và ông Trang (Trạng?) mấy các anh em ta ở Paris đều mạnh giỏi.
Nay cháu đã tìm được nơi [giễ?] học tiếng.
Mấy 4 tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, [tém?] tiếng Tây luôn luôn, tuy ở Anh song chẳng khác gì ở Pháp và ngày tháng luống [nhưng?] chỉ lo [hau?] khỏi đói chớ chẳng học được bao nhiêu. Mà cháu ước ao rằng 4, 5 tháng nữa lúc gặp Bác thì sẽ nói và hiểu được tiếng Anh nhiều nhiều.
Bên ta có việc gì mới và nếu Bác dịch mấy hồi sau xong rồi, xin Bác gởi cho cháu.
Nay kính, C.D. Tatthanh
Drayton Court Hotel, West Ealing W. London

[Tái bút] Chuyến này Bác sẽ đi nghỉ hè đâu?

Phan Chu Trinh ở Pháp, vừa đi dạy vừa tiếp tục vận động cho việc cải cách chính trị ở Việt Nam, nhưng không khả quan. Ông cũng gặp được các trí thức người Việt là Phan Văn Trường – Nguyễn Thế Truyền đang sống tại Pháp, và các ông cùng hoạt động vì nước.

Được ba năm, chiến tranh thế giới I nổ ra, có kẻ bí ẩn cáo giác với chính quyền Pháp rằng Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường là điệp viên của Đức, khiến hai ông bị bắt giam và thẩm tra gần mười tháng trời, đến tháng 07/1915 mới được trả tự do.

Ra tù, mất việc, chí sĩ Phan Chu Trinh làm nghề nhiếp ảnh để mưu sinh, và hoạt động cũng vì thế mà giảm sút. Chính trong khoảng thời gian này, tư tưởng và đường lối của ông bắt đầu có chuyển biến. Ông cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của chính giới, công luận và thậm chí cả giới kinh tài người Pháp, vận động bất cứ sự hỗ trợ vật chất và tinh thần nào cho người Việt, thông qua các bạn của ông còn ở trong nước.

Năm 1919, Phan Chu Trinh cùng các bạn viết Bản Yêu sách của nhân dân An Nam, ký tên giả là Nguyễn Ái Quốc, rồi cùng Coong đem tới gởi Hội nghị Versailles (chẳng biết vì sao hình lưu truyền lại chỉ có mình Coong?) Coong khi này 29 tuổi, chưa có hoạt động gì đáng kể, chủ yếu là lúi húi làm bồi bàn kiếm sống các nơi.

Trong khoảng từ 1919 – 1925, tư tưởng của Phan Chu Trinh chín muồi, ông viết lách khá nhiều và gởi về phổ biến trong nước. Uy tín của ông tại ba kỳ đều cao vượt, nhiều người trẻ thức tỉnh, canh tân bản thân, tìm hiểu về dân chủ và nhân quyền, tầng lớp trí thức và dân chúng không ai mà không biết tới Phan Chu Trinh.

Năm 1925, mười lăm năm bị lưu vong đất khách, cụ Phan Chu Trinh năm mươi bốn tuổi, được Pháp cho hồi hương; trước đó ở quê nhà Quảng Nôm, vợ và con trai cả đã mất vì bệnh tật, hai cô con gái đã lấy chồng, người chí sĩ trở về thấy gia cảnh quạnh hiu tứ cố vô thân. Cụ tiếp tục diễn thuyết và viết lách để truyền bá tư tưởng dân chủ và nhân quyền, phê phán đả kích chế độ quân chủ độc tài, khuyến khích công thương nông nghiệp, được giới trẻ và trí thức ủng hộ.

Năm 1926, cụ qua đời tại Sài Gòn.

Bình: Ngày xưa, bắt lưu vong vì không thể giết không thể bỏ tù nhưng cũng không thể để cho tự do tồn tại. Rõ ràng, khi lưu vong thì nhà chí sĩ như bị trói tay chân, hoạt động không còn hiệu quả, bởi bị cô lập khỏi những người ủng hộ. Ngày nay, chuyện lưu vong chẳng có mấy ý nghĩa, do kỹ nghệ tân kỳ, giao tiếp với nhau cách xa vạn dặm mà cũng như ngồi đối mặt. Bởi thế, bắt ai đó lưu vong không phải vì họ nguy hiểm với nhà cầm quyền, mà vì sự lưu vong đó được dùng như một sự đổi chác lợi lộc cho nhà nước mà thôi.

5. Đến chết vẫn còn “gây rối trật tự công cộng”

Vì cụ không có thân nhân ở Sài Gòn, cho nên các nhân sĩ trí thức người Việt lập ra một ban tổ chức lễ tang cho cụ. Không ngờ, lượng người đi đưa tang cụ tại Sài Gòn lên đến cả trăm ngàn, gồm đủ mọi thành phần từ thợ thuyền, học sinh, thương nhân, trí thức, nhân viên công chức, tu sĩ, nông dân… Khí thế vô cùng hùng tráng, tưởng không có lễ tang hay sự kiện nào lớn hơn từ trước tới nay tại xứ Annam. Người ta tiếc thương cho một nhân cách lớn, một bộ óc vĩ đại và một trái tim chảy hết máu vì dân vì nước.

H1

H1

Sau đó chưa hết, tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ, thanh niên và trí thức tiếp tục phát động phong trào để tang cho cụ Phan Chu Trinh. Họ tổ chức nhiều cuộc hội họp, biểu tình ôn hoà, diễn thuyết công khai để tưởng nhớ cụ, truyền bá tinh thần dân chủ và ý thức nhân quyền. Số lượng người tham gia vô cùng đông, ở cả ba kỳ, hoạt động dân chủ ôn hoà diễn ra rầm rộ, đến nỗi làm cho nhà cầm quyền Pháp phát điên, phải dùng thủ đoạn gian trá và độc tài là bắt ép các trường Tây học cấm học sinh tham gia phong trào (nếu tham gia bị đuổi học), bắt bớ một số người hoạt động, đuổi việc thợ thuyền, sa thải công chức… Phong trào dân chủ chuyển thể sang hình thái khác.

Bình: Nhìn chuyện người Việt truy điệu và để tang cho cụ Trinh cách nay gần thế kỷ, rồi so lại với tình hình bây giờ chợt thấy mủi lòng, vẫn chưa có người nhân sĩ trí thức ủng hộ dân chủ nào có tầm ảnh hưởng và uy tín đủ với quốc dân bằng một góc cụ Trinh, chưa có phong trào dân chủ nào đánh động được tới tâm hồn và lối sống người Việt. Các trí thức tiến bộ, bạn chờ có người gánh thay trách nhiệm của bạn mãi hay sao mà chưa chịu xuất đầu lộ diện? Quốc dân, bạn còn mê ngủ mãi hay sao?

6. Bình luận của người viết

Cụ Phan Chu Trinh là lãnh đạo của nhóm người có tư tưởng dân chủ sớm nhất ở Việt Nam. Cụ tuy là quan viên với con đường hoạn lộ thênh thang, bụng chứa thi thư, nhưng lại từ bỏ nền quân chủ và đấu tranh cho việc người dân có quyền làm chủ đất nước.

Cụ chủ trương đường lối ôn hoà bất bạo động, dù trước đó, cha cụ là nghĩa sĩ vũ trang của phong trào Cần Vương.

Phong trào dân chủ hiện đại phải rút kinh nghiệm từ bài học của trăm năm trước, cần phải bắt đầu trở lại bằng phong trào Duy Tân. Những việc lớn cần duy tân trước mắt mà mỗi người có thể tự làm được:

  • Mở mang tinh thần hiếu kỳ và nghi ngờ khoa học cho giới trẻ, bài xích 100% lối học thuộc lòng thiếu tư duy. Khuyến khích tỵ nạn giáo dục và home-school, tẩy chay bằng cấp.
  • Hướng dẫn cho người dân biết quyền và vị thế của họ trước cơ quan công và các nhân viên công chức được trả lương từ thuế.

Tác giả: Hai Le

Edit: Triết Học Đường Phố

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

 

Lao phổi tâm hồn – Y học bó tay với căn bệnh thế kỷ

0

(882 chữ, 3 phút đọc)

Tôi không am hiểu về y học, cũng chưa bao giờ có ý định dấn thân vào con đường cứu sống tính mạng của kẻ khác, bởi tôi là một kẻ bệnh hoạn đang che giấu trong mình bao nhiêu bệnh tật. Đối với những chẩn đoán, cơ thể tôi không ốm o gầy héo, nhưng tâm hồn tôi đang lụn dần đi theo từng ngày trôi qua. Tôi mang trong mình căn bệnh thế kỷ chưa tìm ra được phương thuốc chữa, căn bệnh lao phổi tâm hồn.

Sự khác biệt lớn nhất giữa người bình thường và những kẻ mắc bệnh như tôi là việc chúng tôi bị nghiện sự đau khổ và tuyệt vọng. Người bình thường hài lòng với tâm hồn thư thái, một tâm hồn ngoan ngoãn dễ chịu, họ mong ước những cơn đau bước qua đời họ bằng bước chân rón rén. Chúng tôi thì lại không chịu nổi tâm trạng hài lòng đó. Chúng tôi vui chơi với đau khổ tuyệt vọng đến nỗi mãn nguyện với nó rồi đâm ra thù ghét và muốn chạy trốn sự hạnh phúc. Chúng đã trở thành một phần máu mủ trong đời sống chúng tôi, nếu như phải sống mà thiếu vắng đi cảm giác đau khổ, chẳng khác gì cây khát nước, con người khát không khí để thở. Cuộc sống sẽ trở nên nhạt nhẽo với những ngày mà người bình thường ngợi ca tốt đẹp.

Rồi chúng tôi quyết định làm cuộc cuộc di cư vào trong những miền hoang vắng cô liêu, bởi đã quá chán ngán những phù du thường nhật mà con người bình thường đang tôn thờ. Chúng tôi khinh bỉ những điều đã tạo ra cuộc sống hài lòng, đó là vật chất tiện nghi, thói lạc quan luôn được bồi bổ và cố gắng duy trì cho đến khi cạn kiệt giọt sức cuối cùng. Việc chăm chút vun trồng tưới bón cho những xoàng xĩnh, đó là tất cả những nỗi khao khát man dại của con người bình thường, nhưng đối với những con bệnh, đó chỉ là một cơn điên cuồng với ham muốn đập nát đi hết tất thảy. Đôi khi tôi muốn cho nổ tung những tòa nhà cao tầng, muốn đập phá hết máy móc thiết bị, biết rằng đó là những hành động ngu xuẩn và ngông cuồng, muốn khạc nhổ một bãi nước bọt rồi vò tóc xúm đầu những kẻ luôn tỏ ra bộ tịch tỏ ra yêu quý cuộc đời.

Tôi biết kẻ mắc bệnh như chúng tôi chỉ là những kẻ biến thái điên tàn. Hiển nhiên là chúng tôi cũng yêu quý cuộc đời này không khác gì những người khỏe mạnh. Tuy nhiên, phải chăng vì quá tôn thờ đời sống mà chúng tôi đâm ra chán ghét những kẻ dùng thứ tình cảm hời hợt để đối diện với lý tưởng của chúng tôi. Làm thế nào cho cả thế giới hiểu ra niềm mong mỏi tìm được một ý nghĩa cho kiếp nhân sinh này được mặc lên trên mình một thứ áo mới không còn vô nghĩa, chí ít là đối với riêng tôi.

Cả thế giới này có lẽ sẽ vồ dập vào tôi để chất vấn, tại sao chúng tôi có thể sống mà không hề chia sẻ được bất kỳ niềm vui nào đối với đời sống này. Không một niềm vui nào của người bình thường mà tôi có thể tìm thấy mình đắm say trong đó. Không thể đọc được một quyển sách thịnh hành, đứng trước niềm vui của bạn bè mình thì tôi quả luôn bất lực trong con đường tìm ra lời giải đáp tại sao những quán cà phê đông nghẹt, những rạp chiếu phim, rồi khu vui chơi giải trí, thú vui trưng diện, ăn uống nhà hàng hạng sang, tất cả đều gây cho tôi cảm giác ngột ngạt khó chịu.

Cũng giống như tôi, bạn bè tôi chẳng thể nào hiểu nổi tôi làm sao có thể hứng thú với thứ văn chương thi ca đầy ảo tưởng. Họ cũng đứng trước mặt tôi trố mắt kinh hoàng với một đứa chỉ có thể sống trong những điều phi thực tế. Thứ thơ ca lãng mạng tôi yêu quý và trót lỡ để mình đi lạc trong đó, tất cả chỉ là một sự điên rồ trong con mắt người khỏe mạnh.

Bao nhiêu lần tôi ném ánh mắt lên bầu trời hét lớn tại sao họ đúng còn tôi phải sai. Nhưng rồi chợt nhận ra nếu quả thật tôi không thể đúng thì việc chấp nhận mình sai cũng đâu có gì quan trọng. Họ bình thường còn tôi bệnh hoạn biến thái. Sống như họ mới là yêu quý cuộc đời thì tôi chấp nhận làm kẻ lạc loài yêu đời bằng tất cả sự điên rồ nhất mà tôi có thể dành trọn cho đời sống.

Nhân loại đang e ngại căn bệnh này. Tuy nhiên đối với tôi, bệnh không nguy hiểm như mọi người vẫn nghĩ. Có khi nếu đã được sống một ngày trong bệnh tật, bạn sẽ còn muốn níu kéo chúng ở lại mãi mãi bên cạnh đời sống mình.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Thư gửi em, nhà văn trẻ

1

(829 chữ, 3 phút đọc)

Ôi, em tìm được niềm khao khát của mình, em chạy thật nhanh sau đó em lạc. Em lạc vào những con mồi béo bở, lạc vào những giá trị hữu hình. Em kiếm tiền nhưng lại trở thành một kẻ rẻ tiền.

Ôi, em ơi… chị sẽ níu giữ em lại. Em là ai? Em có phải là một kẻ đã viết ra những điều đó? Hay em là một kẻ trong bao nhiêu kẻ tầm thường ngoài kia? Không, em là ai? Chị chưa thể nhìn thấy.

Em là một nhà văn, em nhất quyết mình là một nhà văn. Em không phải một kẻ tầm thường. Em yêu những con chữ, chị có thể nhìn vào đôi mắt em và có thể thấy em ngồi bên cửa sổ rệu rã, chẳng ai biết đến mình. Nhưng em được thoả sức ôm ấp những con chữ, em được là chính em, em không dùng tình yêu để đổi lấy thứ không có giá trị với bản thân.

Thay vì em bòn rút những ý tưởng đã cạn khô, em hãy ngồi xuống, có thể khóc, có thể tuyệt vọng nhưng em phải luôn là em. Em còn trẻ, còn cả một đời để tự biết mình là ai. Hãy trau dồi, tiếp tục trau dồi.

Em đừng nghe những lời phê bình, nhận xét, chính những lời ấy đã làm em tự ảo tưởng, làm em chùn bước, làm em phấn khích, mang đến cho em đủ loại tâm trạng. Chúng là những con sâu bọ chỉ muốn đục khoét tâm hồn em. Điều em có thể làm là em hãy nhìn tận sâu vào tâm hồn mình, em có thấy điều gì? Em có thấy mục đích ban đầu hối thúc em viết là gì? Em sẽ làm gì nếu người ta bắt em không được viết nữa? Em có điên cuồng như một con thú dại? Em hãy nhìn xem, họ không bắt em dừng viết, họ lèo lái để em không còn nhìn thấy em nữa. Em phải cứng rắn để chứng minh rằng em là ai. Em không phải một kẻ như bất kỳ kẻ nào khác trên đời này.

Mọi bài viết của em hãy luôn và chỉ luôn xuất phát từ tình yêu, cảm xúc của chính em, với tất cả những gì em có và em viết như thác lũ tuôn trào. Xin em đừng bao giờ tự ngượng ép mình phải viết nữa. Nếu cạn kiệt con chữ em hãy nghỉ ngơi, hãy hoà mình vào thiên nhiên, vào chiếc lá, bông hoa, vào cái radio cũ mèm, vào tất cả những thứ bình thường và gần gũi với em nhất.

Làm nghệ thuật em đừng mong chờ được đáp trả gì cả, em cứ làm những gì em muốn. Nghệ thuật không được tính toán bởi những con số. Một năm, mười năm, hai mươi năm hay ngay cả lúc em đã chết đi cũng đừng bao giờ ao ước rằng em sẽ nổi tiếng, sẽ được mọi người đón nhận. Một người, mười người, trăm ngàn người hay không có ai cả cũng đừng quan tâm. Những con số không có ý nghĩa gì với nghệ thuật. Em viết cho riêng em, em viết để thoả nỗi day dứt trong lòng em, cho con ngõ nhỏ nơi em sống, cánh đồng em đi qua. Nhưng tuyệt đối không viết vì ai, viết cho ai, hoặc bất kỳ mục đích gì mà nó không xuất phát từ trái tim em, từ tình yêu của em.

Em không phán xét, em chỉ quan sát mọi sự vật, sự việc, chỉ đơn giản là quan sát và em kính cẩn, nâng niu, lãnh nhận những ý tưởng như rằng em là một kẻ đầy tớ. Như rằng em phải chịu ơn những ý tưởng nảy ra khi em quan sát. Nhờ đó mà em trân trọng những câu chữ em viết ra.

Em cũng không quá ảo tưởng rằng mình sẽ là ai đó. Nhà văn chỉ là tên gọi dành cho những người yêu việc viết lách. Nó không phải một danh từ cao ngạo, không phải đích đến, chỉ là một cách để phân biệt, là phần thưởng cho tình yêu của em.

Em không có năng khiếu, không có cái nghề nào trong tay. Vậy thì em cứ cố gắng giữ chặt và phát huy việc em làm tốt nhất. Sống xanh tươi như một bông hoa, êm dịu như cơn gió nhẹ và thưởng ngoạn cuộc sống này. Đừng so sánh mình với ai cả, đừng sợ em không bằng người ta. Ông trời sinh ra mỗi người sẽ có những điểm mạnh yếu riêng biệt, không để ai thiệt thòi, quan trọng em có đủ sức và kiên trì để phát huy điểm mạnh của em không? Cô gái, chị tin em sẽ là một nhà văn.

Tác giả: Bà Năm

*Featured Image: Bru-nO

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Cởi bỏ mặt nạ đi, đừng tỏ vẻ là kẻ yêu đời!

0

(940 chữ, 4 phút đọc)

Bạn tôi: Tớ không hiểu tại sao lời lẽ thốt ra từ miệng cậu bao giờ cũng sặc mùi cực đoan. Cậu thực sự không nhìn ra được một màu sắc nào tươi tắn từ đời sống này?

Tôi: Việc tớ nhìn ra nó màu gì không phải là điều quan trọng. Bởi màu xanh, màu đỏ , màu vàng hay màu đen, màu xám, cũng chỉ là thế giới quan riêng tớ. Dù tớ có nhìn nhận nó ra sao thì bản chất của cuộc sống này vẫn luôn là thế.

Bạn tôi: Và cậu đã nghĩ rằng bản chất của nó muôn đời là sự tuyệt vọng của một kiếp người?

Tôi: Tớ không chắc về điều đó. Tất thảy mọi sự tớ đã nhìn thấy và cảm nhận rõ rệt chỉ đang dừng lại trong những câu nghi vấn. Nhưng bạn của tớ ơi, chẳng lẽ cậu chưa bao giờ trông thấy những hạnh phúc ngắn ngủi so với những đau khổ, ánh hào quang chớp nhoáng vừa bừng sáng đã lụi tắt giữa vô thường, rồi con người trở về trong những khốn khổ và nỗi bất lực. Hạnh phúc là gì mà không phải là một nhà tù giam hãm linh hồn của những con người tội nghiệp đáng thương. Hạnh phúc trói buộc họ vào nó, biến con người trở thành tù nhân nô lệ. Thậm chí con người từ muôn kiếp nào cũng đã tự nguyện đeo gông trói buộc mình với hạnh phúc, bởi họ rất sợ hãi đau khổ. Đằng nào hạnh phúc hay đau khổ thì con người cũng sẽ lụi bại dưới bàn tay của cuộc sống.

Bạn tôi: Nhưng vẫn có người tìm ra được cho mình sự an lạc và hạnh phúc trong cuộc sống. Họ nhìn đời bằng một đôi mắt tinh khôi sáng sủa.

Tôi: Đối với tớ, những người tự huyễn cuộc sống này tươi đẹp là những người chưa bao giờ biết đến mùi vị của đau khổ. Hoặc giả họ đã từng đau khổ đến mức phải yêu đời, thì những người đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, bởi đó là những kẻ đã giác ngộ. Những kẻ còn lại là những kẻ luôn ra vẻ bộ tịch am hiểu về cuộc đời. Họ nói rất hay ho nhưng bên trong thì đang đổ nát lụi tàn, đó chỉ là những kẻ đang không ngừng chiến đấu một mất một còn để dành lại về mình sự hồn nhiên chất phác đã bị mang đi đánh cắp. Những kẻ đó càng đáng khinh vì bọn họ luôn đầy mùi giả tạo.

Bạn tôi: Đôi khi tớ thấy kinh hãi trước sự trống rỗng của đời sống này. Tớ không biết phải nhìn nhận đó bằng ánh mắt nào. Con mắt nào cũng bị che khuất bởi những cái không toàn thiện. Mọi thứ trong tớ vẫn chỉ đang là những cuộc thử nghiệm.

Tôi: Nếu cậu vẫn còn đang băn khoăn và phân vân về nó, lời khuyên duy nhất tớ dành cho cậu là hãy cứ tiếp tục trải nghiệm. Tớ không nghĩ những điều tớ đang nhìn nhận xung quanh đời sống này là điều đúng đắn. Nhưng tớ chắc chắn tớ đã kinh qua hết bao nhiêu sự thể mới có thể nhìn ra. Và một khi đã nhìn nhận rõ chân tướng sự việc, tớ không muốn dành cả cuộc đời mình để rao giảng những điều đi ngược lại. Tớ không muốn bày tỏ niềm tin cùng sự lạc quan, lừa bịp người khác và ngay cả chính bản thân tớ. Làm sao tớ có thể gạt bỏ hết tất cả tiếng kêu thống khổ, trấn áp những nỗi tuyệt vọng trong tớ, tớ không muốn mang lên mình một cái mặt nạ chỉ để tinh thần hóa những nỗ lực của con người trong khi nó chỉ là một sự cách điệu dối trá.

Bạn tôi: Cả thế giới luôn nói về sự lạc quan và niềm tin. Đó phải là một bài ca tuyệt diệu tán tụng cuộc đời. Cậu không thể nào nói khác được.

Tôi: Tớ biết. Tớ biết. Tớ phải luôn tỏ vẻ làm bộ làm tịch. Tớ nên tỏ ra vui thú và lạc quan trước tất cả mọi sự, tớ cần ngợi ca sự sống và phải luôn sợ chết.

Bạn tôi: Cậu có nghĩ rằng chúng ta còn trẻ, bản tính mình vẫn còn rất trẻ con, chúng ta cần phung phí thêm vài ba cái thanh xuân nữa thì mới hiểu thêm cuộc đời này.

Tôi: Cũng có thể cậu đúng. Tớ nghĩ mình sẽ rất hổ thẹn nếu đến một ngày tớ nhận ra đời sống này không còn bất toàn như tớ ảo tưởng. Cho đến lúc đó, tớ không muốn mang cái mặt nạ giả dối đó lên mình. Nhưng có lẽ tớ nghĩ cậu và mọi người xung quanh tớ, tất cả chỉ đang hiểu lầm ý tớ. Thỉnh thoảng tớ nhìn vào đời sống này, tớ nói những lời tiêu cực không ai chịu nổi. Không phải vì tớ quá chán ghét đời sống, mà bởi tớ không thể chịu đựng nổi khi ai đó dùng những lời giả tạo để trầm trồ ngợi khen. Đối với tớ những lời ca tụng đó là một sự xúc phạm đối với đời sống chân chính. Đời sống này chỉ đáng giá bằng những câu dối trá làm họ mãn nguyện vậy thôi sao! Mặc dù tớ hiểu hình ảnh cuộc sống trong lòng tớ cũng rõ là vớ vẩn và ngu xuẩn.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: harutmovsisyan

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

[THĐP Review] Con hủi, Helena Mniszek – Tiếng răn ám ảnh dành cho những kẻ lên đường truy cầu hạnh phúc

0

thđp review

(1615 chữ, 7 phút đọc)

“Những nẻo đường nào sẽ dệt thành mạng đường đời cho mình lần bước, những dây đàn nào sẽ rung ngân thanh âm về sự tồn tại của chính mình; điều gì sẽ dành cho mình đây – những ban mai trong lành e ấp hạnh phúc và hương thơm tháng năm hay những hoàng hôn u ám với vầng trăng ủ ê nhợt nhạt? Những ngày hạ nóng nung tranh đấu hay những cơn bão tuyết băng giá nghiệt ngã của số phận?”

Có lẽ những dòng văn chất chứa đầy nỗi suy tư kia cũng đủ để diễn đạt tinh thần lớn nhất của tác phẩm kinh điển Con hủi của nữ văn sĩ Ba Lan Helena Mniszek, đó là sự hoang mang của kiếp con người khi không thể biết trước được tương lai và cuộc chiến khốc liệt của họ trong việc giành lấy hạnh phúc của cuộc đời mình giữa muôn vàn những trái ngang khổ cực.

Tàn nhẫn – đó là tất cả những gì cuộc đời đã dành cho cặp trai tài gái sắc là đại công tử Waldermart Michorowski thuộc dòng dõi quyền quý nhất cả nước và con gái một điền chủ quý tộc nhỏ – nàng Stefcia Rudecka. Tàn nhẫn cũng chính là những gì tác giả dành cho người đọc trong việc dẫn họ vào những cơn bão lòng rung cảm dữ dội cùng với hai số phận trớ trêu trong sự chênh lệch đẳng cấp xã hội.

Nghe tên Con hủi ta có thể hình dung ra một kẻ nào đó xấu xí, bệnh hoạn với hình thù gớm ghiếc sẽ xuất hiện trong cuốn sách. Nhưng không, biệt hiệu này lại dành cho cô gái tài sắc vẹn toàn Stefcia Rudecka ấy. Chính sự khác biệt đẳng cấp của nàng đã khiến nàng trở thành một sinh vật bị ruồng rẫy, đay nghiến, dày xéo và khinh miệt đến tận cùng. Sự dung hòa, chấp nhận là thứ không thể xảy ra khi những độc tố kia đã ken dày thành trùng trùng lớp lớp bởi biết bao nhiêu thế hệ con người. Chỉ những cá nhân thực sự dũng cảm và can trường mới có thể vượt lên được những rào cản đau đớn ấy.

Những khó khăn trong tình yêu bởi sự thiếu môn đăng hộ đối trong truyện Con hủi được khắc họa một cách rất khắc nghiệt và dữ dội, đến mức dường như không thể tưởng tượng nổi rằng trên đời này lại tồn tại những sự hà khắc đến bạo tàn như vậy. Có thể, đây là một cách thể hiện nội dung của tác giả, tương tự như một vở bi kịch mang màu sắc thậm xưng và cường điệu.

“Nhưng cô ta là một phần tử không thích hợp trong giới chúng ta, cô ấy không phải dành cho chúng ta! Không nên gần gũi và thân mật với cô ta. Cô Rudecka, đối với chúng ta – là một con hủi!” – Barxki

Tiểu thuyết này đã làm dậy lên khát khao chinh phục những điều chân thiện mĩ bằng cách phá tung mọi xích xiềng định kiến, các quan niệm và phong tục cổ hủ của xã hội cũ. Sự đau đớn được thể hiện đậm đặc trong cuốn sách làm dấy lên trong tâm linh người đọc một thông điệp rằng nếu ta không dũng cảm vượt qua những điều trái ngang khắc nghiệt, ta cũng sẽ vĩnh viễn nằm lại trong nấm mồ bi thảm và hối tiếc cho tới hết cuộc đời. Con hủi đã đánh động sự thức tỉnh của người đọc bằng nỗi đau và cái chết. Tôi cho rằng đây là sự khôn ngoan và tinh tế của tác giả. Vì theo bản năng sinh tồn, con người luôn sợ hãi bản án tử thần và luôn tìm cách tránh xa những tác nhân dày xéo sự hiện diện của họ.

Tác giả kể câu chuyện về nghịch cảnh trong tình yêu lứa đôi nhưng khi nhìn rộng hơn ta có thể nhận ra nàng Stefcia Rudecka hoàn mĩ kia như một biểu tượng cho sự thật, chàng Waldermart oai hùng là hình ảnh cho khát khao của con người trong việc nhận ra và nắm giữ những sự thật ấy, còn toàn bộ giới quý tộc chống lại hạnh phúc của đôi thanh niên đại diện cho những sự yếu đuối, giả dối và u mê của con người trong cuộc hành trình hướng tới mặt trời chân lý. Câu chuyện này cũng tương tự như chuyện chàng hiệp sĩ mang thanh gươm trắng cưỡi ngựa lên đường băng qua những gai rào đen tối của mụ phù thủy để giải cứu nàng công chúa xinh đẹp đang ngủ mê trong tòa tháp lạnh lùng.

Nội dung cuốn sách được thể hiện giống một vở kịch hơn là một câu chuyện thực tế thường ngày bởi sự dày đặc những chi tiết miêu tả hoa mĩ đậm chất văn chương vừa mơ màng vừa rực lửa, không chỉ cảnh vật mà cả tâm lý con người – lúc hoang mang nghi ngờ, lúc đắm say hoan lạc, lúc đớn đau vật vã và lúc tuyệt vọng thê lương. Có thể nói, Con hủi là một sản phẩm nghệ thuật kiều diễm, được thể hiện rõ ràng trong việc miêu tả ngoại hình, tâm tư, xúc cảm con người và những đường nét của tự nhiên hết sức công phu và tỉ mỉ. Sự tận tâm ấy của tác giả khiến người đọc có được sự đồng cảm lớn lao với nhân vật và có khả năng hình dung bối cảnh câu chuyện đến từng đường nét như thể họ đang được sống ở trong chính thế giới ấy.

Tác phẩm này mang tới một sự kích động vì tò mò khi rất nhiều những dự cảm về nội dung được hé lộ tinh tế trong việc miêu tả thế giới xung quanh, giống như câu thơ của cụ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Càng đọc kỹ cuốn sách, ta càng thấy được tài nghệ và sự uyên thâm của tác giả trong việc cân đối giữa thế giới bên ngoài và bên trong của con người. Điều này làm sống dậy khả năng linh cảm tương lai của bạn đọc, như thể có một tiếng nói khẽ khàng len lỏi vào trong tâm khảm nhắc ta rằng điều gì đó sẽ xảy ra ở những trang tiếp theo. Và thế là, ta liên tục ở trong trạng thái nôn nao bồn chồn vì không biết rằng những gì ta đang lắng nghe có thật sự đúng đắn. Phải chăng tác phẩm Con hủi là một sự trêu ngươi dành cho con mắt hữu hạn của loài người.

“Con người muốn sống cuộc đời vĩnh hằng trường sinh bất tử, nhưng thế giới lại dựa trên sự sinh và diệt. Đóa hoa nào cũng phải héo tàn biết phải làm sao! Miễn là khi sống hoa khiến cho một giây phút của cuộc đời ta được thêm phần tươi đẹp – song con người bây giờ lại không chịu thỏa mãn với điều đó, họ muốn phân tích, muốn lý giải ngay chính niềm hạnh phúc kia. Nhưng cũng như đóa hoa kia, nếu bị phân nhỏ ra thành muôn mảnh, sẽ chỉ là một búi rác mà thôi. Khi hiểu ra điều đó, thất vọng, họ muốn ghép lại hoa như cũ như cũ, nhưng kết quả thảm thương thay, và thường họ đành  vứt hoa đi… Với mọi chuyện trên đời cũng thế.” – Cụ Maciej

Cảm giác của tôi khi đọc cuốn sách biến đổi từ sự lơ đễnh, mơ màng chuyển sang sự bồn chồn, náo nức, tiếp đến là sự căng thẳng, kích động đến nghẹt thở, để rồi cuối cùng, tất cả vỡ òa trong nước mắt thổn thức. Chưa từng có tác phẩm văn học nào khiến tôi khóc nhiều như vậy cho tới thời điểm hiện tại. Cho đến tận cùng, tôi mới hiểu ra, tất cả những gì tác giả đặt bút trước đó là để chuẩn bị cho khoảnh khắc bùng nổ sau cùng chấn động hơn tất thảy.

Quả thực, nếu nhìn cuốn sách này chỉ đơn thuần là tác phẩm tình yêu lãng mạn, thậm chí mang chất ngôn tình phảng phất thì quả là một điều đáng tiếc cho người đọc. Bên cạnh nội dung to lớn nhất về sự phá vỡ xích xiềng định kiến trong tư duy để vươn tới hạnh phúc chân thực, tác phẩm Con hủi còn đề cập đến những đề tài quan trọng khác về sức mạnh ngôn từ, sự bình đẳng giữa người nam và người nữ trong tình yêu, sự tiến hóa của con người qua các vòng lặp định mệnh và xu hướng tìm kiếm tâm linh khi họ ở trong sự bất lực trước cái chết.

Con hủi có thể trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi về hậu quả có thể xảy ra cho một người khi họ rơi vào đoạn đường thử thách tương tự, đặc biệt trong tình yêu. Nó như một tiếng răn, một lời cảnh báo và cũng là lời động viên thuyết phục người đó vượt lên trên những yếu hèn và run rẩy của chính mình để chạm tay tới niềm hạnh phúc vẫn hằng khao khát. 9/10 là điểm tôi dành cho tác phẩm kinh điển này.

“Người ta không xét ngọc qua cái khung mà qua giá trị bản thân của viên ngọc. Trong một cái khung bằng vàng vẫn có thể đặt những viên ngọc giả.” – Waldermar

Tác giả: Vũ Thanh Hòa
Featured Image: Sadie Pices

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Nếu Phật Thích Ca tranh luận với Adi Shankara. Ai sẽ thắng?

4
(1675 chữ, 7 phút đọc) (Dịch từ một câu trả lời trên Quora)

“Shankara bước vào một hội trường nơi Đức Phật đang ngồi cùng các đệ tử của Ngài. Ông cúi chào Đức Phật và gửi tới Ngài lời chúc sức khỏe. Sau đó ông giới thiệu bản thân mình là một vị Phật* đến từ một thiên niên kỉ trong tương lai, và xin phép được hỏi một vài câu hỏi.”

• • •

Đó là một câu hỏi giả tưởng thú vị.

Hãy tạo ra một tình huống và suy ngẫm xem chuyện gì sẽ xảy ra. Để không vượt quá phạm vi, không quá phóng đại, tôi đã in nghiêng những câu từ chính miệng Đức Phật nói ra, những câu này được trích từ kinh điển Phật giáo mà tôi đã đánh số thứ tự trong phần tham khảo. Những phần còn lại đều là hư cấu, một sự dàn dựng dẫn đến tình huống giả lập như được yêu cầu.

Như thế, tôi bắt đầu suy ngẫm:

Shankara bước vào một hội trường nơi Đức Phật đang ngồi cùng các đệ tử của Ngài. Ông cúi chào Đức Phật và gửi tới Ngài lời chúc sức khỏe. Sau đó ông giới thiệu bản thân mình là một vị Phật* đến từ một thiên niên kỉ trong tương lai, và xin phép được hỏi một vài câu hỏi.

*Translator: Chữ Buddha (Phật) là một chức vị dành cho những người đã chứng đạt giác ngộ (enlightenment), niết bàn, và đã hoàn toàn thấu triệt Tứ diệu đế.

Đức Phật chào đón Shankara và cho ông ngồi vào một vị trí thượng đẳng. Mọi người trong hội trường đều kinh ngạc khi thấy một người đàn ông đến từ tương lai và hồi hộp chờ đợi cuộc thảo luận sắp diễn ra. Nôn nao không kém là các vị thần (gods/devas) đã hạ thế từ các tầng trời để chứng kiến cuộc thảo luận này.

Shankara bắt đầu và đặt một câu hỏi,

“Xin hỏi, Ngài là ai?”

Đức Phật im lặng. Một sự im lặng sâu thẳm bao trùm hội trường. Không ai thốt ra một lời nào, tất cả đều đang chờ đợi một câu trả lời từ Đức Phật, nhưng nó không xảy ra.

Hiểu được rằng sẽ không có câu trả lời, Shankara bèn đưa ra một câu hỏi khác. Ngài hỏi,

“Thưa Ngài, Ngài không phải là ai?”

Đức Phật một lần nữa giữ im lặng. Ngài nhận ra người đặt câu hỏi cũng là một người có mức độ giác ngộ ngang ngửa. Ngài hiểu rõ cái bẫy của việc trả lời một câu hỏi như thế này sẽ dẫn tới chuyện gì.

Một sự thinh lặng tuyệt đối một lần nữa bao trùm hội trường. Biết là sẽ không có câu trả lời, Shankara bèn đưa ra câu hỏi thứ ba. Ngài hỏi,

“Thưa Ngài, Ngài có phải là một người nào đó, hay chỉ là một sự sắp xếp (permutation) và kết hợp của vật chất và ngẫu nhiên tình cờ có được ý thức (consciousness) và cảm giác? Liệu rằng việc rời bỏ ý thức này sẽ là cái kết của Đức Phật Thích Ca?”

Phật trả lời, “Shankara, Chính vì có nhân, có duyên, các ý tưởng của con người sinh và diệt [1]. (Thích Minh Châu dịch) Điều này cũng đúng với mọi sinh linh, không loại trừ ta.”

Shankara đáp, “Thưa Ngài, nhân duyên cho sự dẫn đến ý thức đó là gì?”

Phật trả lời, “Nó là những sự định hình có điều kiện. Cái chúng ta tư niệm, tư lường, có thầm ý, cái ấy trở thành sở duyên cho thức an trú. Khi nào sở duyên có mặt thời thức có an trú. Do thức ấy an trú, tăng trưởng, nên trong tương lai, tái hữu sanh khởi. Do sanh khởi tái hữu có mặt trong tương lai, nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. [2] (Tư Tâm Sở: Cetanā, Thích Minh Châu dịch)

Phấn khởi khi hiểu được nhân duyên chính của sự tồn tại, Shankara nói, “Thưa Ngài, vậy thì về cơ bản (chúng) ta là người chịu trách nhiệm cho bản thân ta. Tư niệm dẫn đến hành động, và trong quá trình đó ta gieo nhân cho những sự định hình tương lai!”

“Đúng thế Shankara,” Phật đáp. “Ta là cái ta mong cầu; ta trở thành cái ta mong cầu. Cuộc đời ta có định hướng, và định hướng đó được chi phối bởi những mong cầu và ghét bỏ… Cái một người đang mong cầu sẽ trở thành cá tính (atta-bhava) tương ứng, dù thuận lợi hay không thuận lợi. [3]”

Shankara bèn nói, “Vậy để tóm lại, ta có thể nói rằng một sinh linh trở nên có tri giác là bởi những định hình có điều kiện, cái được dựng lên bởi những mong cầu.”

“Ngươi có thể nói thế,” Phật nói.

“Vậy thưa Ngài,” Shankara nói, “điều gì dẫn đến mong cầu?”

“Nó cũng vẫn là những sự định hình có điều kiện,” Phật trả lời. “Ta tự xây nhà cho chính ta. “Lang thang bao kiếp sống. Ta tìm nhưng chẳng gặp. Người xây dựng nhà này. Khổ thay, phải tái sanh. [4]” (Thích Minh Châu dịch)

“Vậy ta là một mạng lưới của những định hình có điều kiện, nơi ý thức an trú?” Shankara nói theo một cách khác.

“Đúng thế.” Phật đáp.

Shankara hỏi tiếp, “Và từ khi nào, thưa Đức Thế Tôn, chu kì vòng lặp vô tận của sự tái sanh này diễn ra?”

“Về điều này một người cần phải đi vào những vùng cõi sâu hơn của ý thức.” Phật đáp. “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây”. Như vậy Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.” [5] (Thích Minh Châu dịch)

“Vậy thưa Ngài,” Shankara đáp, “Những định hình có điều kiện này đã khiến ta tái tạo lại bản thân, lặp đi lặp lại từ vô lượng kiếp dẫn đến ý thức có điều kiện trong mỗi kiếp?”

“Ngươi nói đúng, Shankara.” Phật đáp.

Shankara bèn hỏi, “Vậy thưa Ngài, vòng lặp luân hồi này có bao giờ chấm dứt không?”

“Có.” Phật đáp, và giải thích thêm rằng chìa khóa để chấm dứt vòng lặp này là sự nhận thức các mong cầu tạo nghiệp quả. “Ôi! Người làm nhà kia. Nay ta đã thấy ngươi! Ngươi không làm nhà nữa. Ðòn tay ngươi bị gẫy, Kèo cột ngươi bị tan. Tâm ta đạt tịch diệt, Tham ái thảy tiêu vong. [6]” (Thích Minh Châu dịch)

“Vậy thưa Ngài,” Shankara nói, “điều này có nghĩa là thật ra có hai loại ý thức. Một là loại ý thức có điều kiện an trú vào những định hình có điều kiện và nó thay đổi theo những định hình đó, và loại thứ hai là ‘ý thức không điều kiện’, nó tách biệt với những định hình có điều kiện và giữ nguyên không thay đổi và được khám phá ra một khi mọi định hình có điều kiện tan biến?”

Cả hội trường trở nên cực kì phấn khích. Shankara đã đưa Đức Phật tới đâu! Cuộc thảo luận này đang hướng đến đâu!

Đức Phật lại trở nên im bặt. Cả nhà nóng lòng chờ đợi. Đức Phật đã thuyết giảng chủ trương “vô ngã” (anatta). Họ đã nghĩ rằng Đức Phật phản đối lại khái niệm về một cái Ngã thường hằng bất biến. Và giờ đây, cuộc đàm luận đã hướng đến sự tồn tại của của một trạng thái tương tự như cái ngã đó, “cái Atta”.

Thấy rằng sẽ không có sự đáp trả, Shankara bèn hỏi một câu hỏi khác.

“Thưa Ngài, sự khác biệt giữa ý thức vô điều kiện và linh hồn là gì?”

Đức Phật một lần nữa không lên tiếng. Đức Phật không bao giờ trả lời bất cứ câu hỏi nào liên quan đến cái (chân) Ngã. Phật nói,

“Shankara, Ta thuyết pháp để diệt ngã chấp. Nếu các người thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừ, tịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại, tự mình giác ngộ, với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãn, quảng đại. [7]” (Thích Minh Châu dịch)

Shankara đã có câu trả lời của người. Cả hội trường mừng rỡ hân hoan. Từ trên cao các vị thần tung hoa ca múa và khi Shankara ra đi, ai nấy cũng đều xấp mình cúi chào Shankara, vị Phật đến từ tương lai.

Tham khảo

[1] Potthapàda sutta – Kinh Potthapàda (Bố-sá-bà-lâu)
[2] Cetena Sutta (Tư Tâm Sở: Cetanā)
[3] Mahatanhasankhya Sutta (Đại Kinh Đoạn Tận Ái)
[4] Dhammapada 153 (Kinh pháp cú)
[5] Samannaphalla Sutta (Kinh Sa-môn Quả)
[6] Dhammapada 154 (Kinh pháp cú)
[7] Potthapada Sutta – Kinh Potthapàda (Bố-sá-bà-lâu)

Tác giả: Amit Jain, A curious seeker of world religions
Dịch và tra cứu: Prana


Về Adi Shankara: Một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Hinduism. Ông là một nhà triết học gia, thần học gia vào đầu thế kỉ thứ 8 tại Ấn Độ, người đã tổng hợp ra triết lý Advaita Vedanta. Ông được xem là người đã có công thống nhất và thiết lập củng cố những tư tưởng chính trong Hinduism.

Cá Hồi Hoang – Những chú cá hồi bơi ngược dòng

0

(1344 chữ, 5 phút đọc)

0020_17A
Ảnh do nhóm Cá Hồi Hoang cung cấp

Mình biết đến ban nhạc này lúc ở căn nhà gỗ nhỏ nằm trên đồi. Mọi người mở bài Tầng thượng 102 rồi cùng nhau lắc lư, nhìn lên trời và ca hát.

“Nhìn mây bay, bay đến khu rừng già
Nhìn ánh sáng, trốn phía sau toà nhà
Ngày trôi qua nhanh hay ngày còn chưa tới
Ngày chờ đợi ai về đến đây đón em về.”

Đó là những ngày vui vẻ, hạnh phúc, an nhiên đầu tiên trong quãng đời mình sống. Ở đó, âm nhạc của Cá Hồi Hoang mang lại cảm xúc bềnh bồng nhất cho mình. Mình không hề tìm hiểu gì nhiều đến các thành viên, mình không phải là một fan ruột luôn theo dõi họ. Mọi thứ đến như cái duyên vậy, mình bắt đầu nghe một số bài nổi tiếng của Cá Hồi một cách thụ động thôi. Ai mở thì nghe, mà cứ mở suốt đến lúc không ai mở nữa thì mình lại tự tìm rồi tự mở nghe.

Khi mình bắt đầu được nghe đến Beertalks thì cũng chỉ tưởng là bài nhạc của chị nào đó hát thôi. Tối ngày ngồi ngân nga:

“Có câu chuyện buồn đời luôn nói về vài người muốn chìm mình vào vài cuộc vui.
Để quên những gì hành hạ ta ban ngày rồi giải quyết mọi chuyện bằng vài chai bia và em sẽ gọi vào số của tôi.
Nếu không ai trả lời hãy đi tìm tôi vào một tối cuối tuần
Dù biết tôi chẳng ra gì chỉ có được vậy thôi vì cuộc sống bất cần.”

Những lời tâm sự giản đơn, những mệt nhọc ban ngày được xả hết vào một tối cuối tuần và sẻ chia với mọi người. Hỏi ra mới biết đó là chất giọng độc đáo của anh Thành Luke – một thành viên của ban nhạc. Để mà tìm người có chất giọng đặc biệt như vậy thật sự rất khó, họ có thể hát hay nhưng họ không thể khác biệt như anh.

Nghe nhạc của Cá Hồi Hoang mình thật sự không chú trọng về lời bài hát bởi phần nhạc đã quá… Mình không diễn tả nổi nữa. Ở đây mình thấy được giới hạn của lời nói, mình không biết phải bình phẩm như thế nào, mình chỉ thấy âm nhạc. Thật tuyệt vời khi tất cả ở ban nhạc này đều hoàn hảo.

Mình thấy có nhiều nhóm nhạc, phần nhạc rất hay nhưng phần lời lại sáo rỗng. Riêng đối với Cá Hồi Hoang mình thấy được chiều sâu trong âm nhạc. Ở bài Nếu có đoạn:

“Ở đâu là thực tại, ở đâu là mơ?
Ở đâu là tương lai, nơi đây là nỗi nhớ
Rồi mơ mộng rồi mong chờ
Khoảnh khắc phai nhạt theo từng giờ
Ngày qua ngày vẫn nơi này vẫn không thấy
Rồi cũng đến thực tại thức ta dậy.”

Tại sao mình nói rằng đây là những chú cá hồi bơi ngược dòng? Vì mình tự ví mình như một dòng sông vậy, mình tiếp nhận tất cả các loại âm nhạc, các ban nhạc trong đó có Cá Hồi Hoang. Từ những ngày đầu cho đến khi Cá Hồi có buổi diễn ở Đà Lạt “Có cần phải có lý không?” Mình đặt vé và đi xem thử. Mình đã không thể nuốt nổi những bài diễn đầu tiên vì mình chỉ nghe những bài nổi bật. Khúc đầu mình rất chán và chỉ đợi đến cuối để nghe những bài mình có thể hát theo. Khúc cuối có bài Tầng thượng 102, Đến bao giờ, Beertalks người mình run bật và mình chảy nước mắt (mình là người thiên về cảm xúc và dễ xúc động) khi mình đã có thể hoà được vào không khí của show. Diễn live đem đến cho mình cảm giác khó mà diễn tả, giống như cả cơ thể mình được hoà vào âm nhạc, được đắm chìm trong thực tại như một giấc mơ, chỉ hơi nóng một chút.

Sau đó về mình mới nghe đến những bài khác: Cánh đồng, Nhà 9A, Hết mực và tất cả những bài khác nữa.

Thường mình sẽ nghe nhiều bài, mình thích và tìm hiểu nhiều mới đi show nhưng với Cá Hồi Hoang mình lại làm ngược lại. Giờ thì mình thấy tiếc, thấy tiếc rằng tại sao mình không nghe những bài kia trước để có thể xem show diễn một cách trọn vẹn. Nhưng không sao, mình mong chờ buổi diễn tiếp theo ở Đà Lạt sẽ là một ngày không xa.

Mình yêu Đà Lạt sẵn và tất nhiên khi được nghe, được xem MV Lola mình cảm thấy hài lòng. Một ban nhạc mình thích có quê hương là Đà Lạt, là nơi mình yêu.

“Nhìn lên em thấy điều gì, thấy điều gì?
Nhìn lên ôi em muốn nói điều gì, nói điều gì?
Em bất chấp quy luật của ánh sáng không biết những đêm với ngày
Em thao thức đến khi mình ngủ quên, cà phê trước khi tắt đèn.”

Trong bài nhạc không hề nhắc đến một chữ yêu nào nhưng mình nhìn thấy trong đó có tình yêu. Một tình yêu nhẹ nhàng, sự quan tâm và cô gái. Một cô gái với đầy những ưu tư, những suy nghĩ. Một cô gái không quan tâm đến thời gian, cô gái tự do và có gam màu tối.

Mình có thể tưởng tượng ra được cô gái ấy, với mái tóc lưng lửng không đánh son, mặc một bộ đồ đơn giản ngồi bên tách cà phê, suy nghĩ và ngủ quên trong căn phòng nhỏ.

Lời nhạc của Cá Hồi Hoang không bắt ép người nghe phải biết họ viết gì. Mình thấy mình được tự do suy diễn những mẩu chuyện của riêng mình. Và mình yêu việc đó, vừa thưởng thức âm nhạc vừa tự quan sát những nhân vật trong lời nhạc do mình tạo ra trong tâm trí.

“Mình làm từ da, cafe, thuốc lá và 250 lít đồ có cồn.”

Một điều trùng hợp những bài nhạc sau này của Cá Hồi Hoang lại có sự góp mặt của Datmaniac. Mình không thể tin được mình lại may mắn đến vậy. Khi mà hai mảng âm nhạc mình thích, những nghệ sĩ mình thích lại kết hợp với nhau thật hoàn hảo. Những kỉ niệm mà mình thấy được sự đồng điệu trong bài Nhà 9A:

“Tôi đã từng nghĩ về hình xăm
Khi tôi mười bốn, mười lăm
Theo mình đến suốt cuộc đời.”

Mình đã từng liều mạng đi xăm lúc 15 tuổi, sau đó là hối hận, là suy nghĩ, là tự khai với mẹ, tự đi tìm nơi để xoá rồi lại không xoá và học được bài học phải tự chịu trách nhiệm với cuộc đời mình. Những lỗi lầm, những nông nổi tuổi trẻ sẽ dẫn mình đi đến những con đường mới ở tương lai. Mình từng khóc, từng tự cào xé da thịt khi biết rằng mình có thể theo những công việc nhẹ nhàng, lương cao. Nhưng vì có hình xăm mà bao nhiêu cơ hội của mình bị từ chối. Sau đó mình vượt qua những suy nghĩ, những hình xăm đến với mình cũng như cái duyên, tất cả mọi thứ sẽ đến và đi chỉ có hình xăm ở với mình đến suốt cuộc đời. Rồi mình học cách chấp nhận.

0028_29
Ảnh do nhóm Cá Hồi Hoang cung cấp

Mình vô cùng cảm ơn âm nhạc của Cá Hồi Hoang, các anh đã can đảm sống với niềm đam mê, theo đuổi và phát triển nó. Sự thay đổi rõ rệt là show Đà Lạt lần gần đây nhất đã có nhiều khán giả nhất. Chúc các anh luôn thành công và vẫn mãi giữ cho âm nhạc chất lượng như bây giờ, khi nghe câu đầu tiên em sẽ luôn nhận ra đây là Cá Hồi Hoang.

Tác giả: Bà Năm

*Feature Image: Cá Hồi Hoang

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2