21.2 C
Da Lat
Thứ Tư, 27 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 103

Gatsby vĩ đại – Nơi bạc tiền phù phiếm lên ngôi

1
thđp review

“Gatsby chỉ là đại gia. Người tạo ra Gatsby mới thực sự vĩ đại.”

Dịch giả Trịnh Lữ đã nói vậy ở phần cuối cùng của bản dịch. Tựa sách The Great Gastby được ông chuyển dịch thành Đại gia Gastby. Cá nhân tôi không đồng tình với quan điểm trên của ông Trịnh Lữ sau khi thưởng thức cuốn sách. Đấy là chưa kể, “đại gia” và “vĩ đại” là hai từ quá chênh lệch nhau về ý nghĩa. Vậy nên trong suốt bài review này, tôi xin được gọi tên tác phẩm là Gatsby vĩ đại.

Tôi đã đọc sách và xem bộ phim được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết kinh điển nhất thế giới này và thấy rằng những gì được truyền tải trên màn ảnh rất trùng khớp với nội dung tác phẩm gốc. Vai diễn Gatsby do tài tử điện ảnh Leonardo DiCaprio thủ vai có độ chính xác đáng nể so với mô tả về chân dung của nhân vật này trong cuốn sách – một kẻ tin rằng mình là Đức Chúa Con được giao một sứ mệnh thiêng liêng khi sống trên cõi trần. Sự phức tạp trong con người Gatsby là sự đan cài chồng chéo của nghị lực phi thường vượt lên trên số phận, nét cô đơn sâu thẳm giữa những xô bồ của đám đông, sự dối trá chỉn chu nhằm che đậy những góc tối bên trong cõi lòng và sự mơ mộng đầy ám ảnh về tình yêu và những phồn vinh hào nhoáng của cuộc đời.

Hình ảnh Gatsby nâng cốc rượu và nở một nụ cười đã trở thành một trong những chi tiết bất hủ của cả cuốn sách và bộ phim.

 “Đó là một trong những nụ cười hiếm hoi có cái phẩm chất khiến ta thấy yên lòng mãi mãi, có lẽ cả đời chỉ gặp được bốn năm lần. Nó chỉ hướng ra toàn bộ thế giới bên ngoài một khoảnh khắc thôi – hoặc có vẻ là như vậy – rồi tập trung hết vào ta với một mối cảm tình không thể cưỡng lại được. Nó hiểu ta vừa đến mức như ta muốn người khác hiểu mình, tin ta đúng như ta vẫn muốn tin ở mình, và khiến ta tin chắc rằng nó có đúng cái ấn tượng tốt nhất về ta mà ta vẫn hy vọng gây được ở đời.”

Bên cạnh đó, chân dung của một nhân vật nữa cũng để lại trong tôi một ấn tượng rất sâu sắc đó là nàng Daisy Buchanan – mối tình cuồng si của Gatsby vĩ đại. Nàng có một giọng nói mê hoặc, đắm say và ngây thơ lạ kỳ, như lôi cuốn người ta vào trong miền ngọt ngào đầy bí ẩn của tính nữ. Có một nét gì đó vừa hờ hững vừa nồng nhiệt nơi nàng. Khi được phủ lên bởi sự xa hoa, lơi lả của bạc tiền và nhung lụa, nét quyến rũ của Daisy càng khiến tôi ám ảnh mê man. Nhưng cũng chính sự lạnh lùng và bạc bẽo của nàng ở tận cùng câu chuyện dành cho Gatsby khiến tất cả những ấn tượng ngọt ngào xinh đẹp về người phụ nữ này sụp đổ.

 “Tim ông đập nhanh mãi lên khi gương mặt trắng ngần của Daisy rướn lên sát mặt ông. Ông biết rằng khi ông hôn cô gái này, và gắn kết những viễn tưởng không tả xiết của mình với hơi thở rồi sẽ lụi tàn của nàng như một hôn phối miên viễn, tâm trí ông sẽ không bao giờ được vô vẻ vô tư như tâm trí Đức Chúa Cha được nữa. Cho nên ông nán lại một khoảnh khắc để nhận được cái âm hưởng đồng điệu gửi tới mình từ một vì sao. Rồi ông hôn cô. Khi môi ông chạm tới, cô vội vàng nở hết như một đóa hoa dành riêng cho ông, và cuộc đầu thai thần thánh đã hoàn tất.”

Tác phẩm Gatsby vĩ đại lấy bối cảnh nước Mỹ thời kỳ hoàng kim những năm 1920 khi nền kinh tế nước này phát triển đến đỉnh điểm của sự thịnh vượng và rồi mau chóng kết thúc trong cuộc đại suy thoái năm 1929. Nội dung cuốn sách kể về cuộc đời đầy biến động của nhân vật Jay Gatsby – người nhanh chóng trở thành đại gia nhờ những hoạt động kinh doanh phi pháp mang lại lợi nhuận khổng lồ. Điểm nhấn lớn nhất trong cuộc đời Gatsby là mối tình nồng say đầy day dứt với Daisy – điều đã làm tan hoang tất thảy mọi giấc mơ Gatsby đã ôm giữ trong suốt cuộc đời và dẫn chàng tới kết cục chua cay nhất. Vậy là, câu chuyện muôn thuở “anh hùng không thoát khỏi cửa ải mỹ nhân” lại được tái hiện trong tác phẩm kinh điển này.

Cuộc đời của Gatsby được kể lại qua lời văn của người hàng xóm Nick Carraway – anh họ của Daisy, người bạn duy nhất của Gatsby và cũng là người đã giúp đôi tình nhân này gặp lại nhau sau năm năm chia cắt. Dưới góc tiếp cận của Nick, Gatsby được dần dần hé lộ từ những khoảnh khắc thưa thớt xuất hiện trên khung cửa sổ hay đứng mơ màng nơi bến tàu cho tới khi họ gặp gỡ nhau, nghi ngờ nhau rồi tin tưởng nhau đến tận cùng trái tim. Rồi kể từ đó, tất cả những manh mối về cuộc đời Jay Gatsby đều được chàng hé lộ với Nick trong cuộc nói chuyện (mà cả hai không biết là) cuối cùng của hai người.

Đối với tôi, điều xúc động nhất ở trong cuốn sách này không phải là tình yêu của Gatsy với Daisy, mà là tình bạn giữa chàng và Nick Carraway. Hai người họ mới thật sự là những kẻ tri âm tri kỷ, nơi mọi toan tính hay lo sợ không còn, nơi sự chân thực được phơi bày trong những lời tâm sự về những góc phần sâu xa, tăm tối nhất của bản thân. Và rồi đến giờ phút cuối cùng, người bạn chí tình chí cốt ở lại, còn người yêu hương gió lại biệt tăm đầy bạc bẽo.

Các câu chuyện lần lượt được mô tả một cách vừa hờ hững mỉa mai, vừa chua chát tuyệt vọng. Có một điều gì đó bí ẩn sâu xa luôn được giữ lại trong tâm tư của Nick – người đàn ông ba mươi tuổi này, khiến cho thế giới bên trong tác phẩm cùng với các nhân vật khác đi cùng đều trở nên mê mờ như khoác lên một tấm màn trắng cách ly đầy vẻ nghi hoặc. Mỗi người đều mang trong mình mỗi nỗi tâm tư, một niềm khát vọng hay ham muốn riêng biệt và tìm mọi cách để đạt được chúng. Nhưng rõ ràng nhất trong số đó chỉ có Gatsby, chàng là người duy nhất được miêu tả trực tiếp vào thế giới nội tâm, còn những kẻ khác đều chỉ được Nick Carraway tường thuật khách quan vẻ bề ngoài. Có lẽ, đây chính là cách tác giả diễn đạt những phù phiếm, xa hoa của xã hội Mỹ trong giai đoạn đồng tiền được phất lên tột đỉnh.

Bên cạnh đó, những bữa tiệc Gatsby tổ chức trong dinh thự của mình, thu hút mọi bướm ong hào nhoáng về tụ hội cũng thể hiện mạnh mẽ sự băng hoại về đạo đức và phẩm chất bên trong của con người trong thời đại hưởng thụ, tiêu pha. Nhưng tất cả những kẻ được hưởng đón lòng hiếu khách của Gatsby lại bày tỏ lòng biết ơn của mình bằng những lời buộc tội quái gở ngay trong chính ngôi nhà của chàng và tuyệt nhiên vắng mặt trong đám tang của bậc triệu phú.

Sự mỉa mai đạt đến điểm cùng tận khi lối sống hời hợt, buông thả, suy đồi, trọng vật chất hơn tinh thần của con người trên mảnh đất Mỹ được miêu tả ngay bên cạnh tình yêu thuần khiết của Gatsby dành cho nàng Daisy và tình bạn không suy chuyển của chàng dành cho người hàng xóm Nick Carraway ấy.

Hình ảnh Gatsby mê mẩn ngắm đốm sáng xanh (the green light) hàng đêm phát ra từ bến tàu nhà Daisy ở phía đối diện đã đi vào huyền thoại. Nó thể hiện khao khát cháy bỏng khôn nguôi của chàng vươn tới những ước mơ tuyệt mỹ được ấp ủ nuôi nấng hàng đêm trước khi đi vào giấc ngủ, trong đó có việc dựng lại những ký ức ngọt ngào với người chàng đã coi là vợ. Hay nói một cách ngông cuồng hơn đó là lặp lại quá khứ, bất chấp rằng điều đó vượt ngoài tầm tay.

Cái kết của Gatsby được mô tả một cách chóng vánh và hờ hững, đối lập hoàn toàn với những ồn ào cuồng nhiệt của những bữa tiệc xa xỉ trong lâu đài của chàng. Cái kết này như một sự vụt tắt đột ngột chẳng hề báo trước của những ước mơ, những toan tính của loài người bé nhỏ. Nó cũng được coi như một sự tiên đoán ngầm của tác giả về cuộc đại suy thoái của nền kinh tế Mỹ sẽ mau chóng diễn ra sau những điểm cực phồn vinh thịnh vượng.

Xét về nghệ thuật miêu tả thì quả thực Gatsby vĩ đại là một viên ngọc sáng. Nhưng ấn tượng về nội dung để lại trong tôi không nhiều ngay sau khi thưởng thức xong, nếu không nói rằng tôi đã cảm thấy cuốn sách khá vô vị, tẻ nhạt. Tưởng rằng mình sẽ không viết gì hết về nó và chuyển sang đọc một cuốn sách khác, nhưng chuyện đó lại chẳng hề xảy ra. Vì cứ dần dần qua từng ngày hồi tưởng lại những chi tiết, tôi lại nhận thấy được những ý tưởng sâu xa hơn trong Gatsby vĩ đại. Chính nét nguội lạnh, hững hờ của cuốn sách là tấm màn che giấu đi những điều đậm đà và thâm thúy. Quả thực, đoạn đường đi tới trái tim của tác phẩm hay trái tim của một con người trong thời kỳ bạc tiền phủ vùi đôi mắt không dành cho những kẻ thiếu sự kiên nhẫn và lắng nghe.

Rất khó để có thể nắm bắt và thấu hiểu được toàn bộ những tầng lớp ý tứ của cuốn sách này. Gatsby, Daisy, nụ hôn, đốm sáng xanh, chiếc xe hơi màu vàng, đôi mắt của ông bác sĩ, những cái chết,… – hàng loạt các biểu tượng nối đuôi nhau cứ đeo bám tôi mãi không yên. Có lẽ, tôi cần thêm nhiều thời gian để đọc lại (không chỉ một lần) để có thể hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm lừng danh này. Đến bây giờ, Gatsby vĩ đại vẫn là một sản phẩm văn học đầy phức tạp và ám ảnh. Xin được miễn phần cho điểm với kiệt tác này.

 “Gatsby đã tin vào cái đốm sáng xanh ấy, vào cái tương lai mê đắm đến cực điểm đang rời xa trước mắt chúng ta ngày này qua năm khác. Ừ thì nó đã tuột khỏi tay chúng ta, nhưng có làm sao đâu – ngày mai chúng ta sẽ lại chạy nhanh hơn, vươn tay ra xa hơn… Rồi một sáng đẹp trời…

Chúng ta cứ thế dấn bước, những con thuyền rẽ sóng ngược dòng, không ngừng trôi về quá khứ.”

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

[Điểm sách] Siddhartha, Hermann Hesse – Một tiếng “Om” toàn thiện

1

(2545 chữ, 10 phút đọc)

Tôi, một kẻ ngông cuồng với đạo, thường muốn tìm ra lỗ hổng trong lời nói của những kẻ sùng đạo để khinh miệt đã vô cùng hài lòng khi đọc cuốn sách này. Cuốn sách nổi tiếng được cho là ẩn chứa triết lý Phật Giáo Đại thừa. Tưởng rằng đây sẽ là một tác phẩm văn học cổ sẽ rất khó đọc nhưng không, lời lẽ của tác giả rất hiện đại xong lại rất minh triết. Những chú thích rõ ràng giúp người đọc dễ hiểu và dễ đón nhận tác phẩm.

Cuốn tiểu thuyết xoay quanh nhân vật Siddhartha là con trai của một Bà La Môn (tên gọi của những nhà vương giả, quyền quý thời ấy) sống trong thời kỳ của Đức Phật. Chàng trai từ thuở nhỏ đã anh tú, thông minh, sáng suốt và luôn đi trước các bạn cùng trang lứa một bước. Đồng thời bên cạnh Siddhartha còn có Govinda – một người bạn thân luôn ngưỡng mộ và đi theo Siddhartha.

Dù rằng Siddhartha dường như đạt được mọi điều giỏi giang hơn người nhưng vẫn luôn khao khát trong lòng muốn đi tìm chân lý, muốn biết được Đại Ngã.

Chàng rủ người bạn thân đến gốc cây để nhập định, ngồi thiền, luyện tập đọc tiếng “Om” toàn vẹn. Rồi chàng lại cùng người bạn ấy đi theo những nhà tu khổ hạnh, khao khát được làm sa môn đi tìm chân lý. Sau ba năm đi theo những nhà tu khổ hạnh, Siddhartha lại tự mình nhận ra một điều rằng những việc anh làm như tuyệt thực, luyện thở, những bài tập tự hành hạ thể xác mình chỉ là để chạy trốn trước tự ngã, tự làm mê muội trong chốc lát giữa nỗi đau đớn, giày xé của cuộc đời.

Sau đó không lâu, hai người bạn nghe được tin có vị thánh nhân đã giác ngộ, người toả hào quang, miệng luôn nở nụ cười, điềm đạm, an nhiên. Cả hai cùng lên đường tìm gặp, lúc này đây Govinda người bạn ấy đã đi theo làm đệ tử của Đức Phật còn Siddhartha cúi chào tạm biệt và đi tiếp con đường của mình vì chàng không muốn đi con đường của Đức Phật.

Trong một đoạn trò chuyện với Đức Phật, Siddhartha đã nói: “Giáo pháp của Phật, của Đấng Giác Ngộ hàm chứa rất nhiều, dạy rất nhiều, rằng phải sống ngay thẳng, tránh điều ác. Nhưng giáo pháp trong sáng ấy, đáng tôn kính ấy thiếu một điều: nó không chứa đựng sự bí nhiệm những gì Đức Thế Tôn, người duy nhất trong hàng trăm nghìn người, đã tự chứng nghiệm. Chính vì thế con lại tiếp tục du hành.” Siddhartha sợ rằng chàng sẽ biến đạo pháp, biến sự quy y, biến lòng kính yêu Ngài, biến tăng đoàn thành bản ngã của chính mình.

Liên hệ với ngày nay, đoạn này phản ánh đúng thực trạng của xã hội qua hàng ngàn thế kỷ rằng con người luôn mù quáng tin vào thánh thần, cúng bái lễ lộc, mặc trên người bộ quần áo lam, quy y Tam Bảo nhưng tâm hồn mãi không thể an tịnh, đạt được giải thoát. Tất cả chỉ là giả dối.

Sau khi bái chào Đức Phật, Siddhartha đến một dòng sông, nhìn màu xanh của trời, vàng của nắng, đỏ, tím,… Chàng quan sát và không hề phán xét. Chàng lắng nghe dòng sông chảy, tiếng chim hót và chàng nhờ người lái đò chở sang bên kia sông để tiếp tục cuộc du hành của mình.

Siddhartha gặp Kamala – một ả điếm và chàng xin nhận Kamala làm cô giáo dạy cho chàng thú hoan lạc đê mê của nhục dục, chỉ cho chàng cách để giàu sang phú quý.
Chàng đến phố thị, lướt qua những kẻ giàu sang, nghèo đói, trộm cướp với tư cách là một người quan sát. Quan sát mọi sự trên thế gian này, cuộc đời đưa đẩy chàng bắt đầu dấn thân vào vòng truỵ lạc. Nhờ những gì học được từ các sa môn mà chàng trở thành người giỏi giang, thông minh, coi việc kiếm tiền như trò chơi. Đôi lúc chàng nghe thấy tiếng vọng xa xăm trong thâm tâm nhưng rồi lại vội vụt tắt. Chàng chìm đắm trong cờ bạc, đưa mình từ một kẻ tài giỏi lắm tiền bậc nhất thành một kẻ cờ bạc, đàn điếm bậc nhất rồi cuối cùng thành kẻ bê tha bậc nhất.

Tôi cũng đồng tình với từng câu chữ của cuốn tiểu thuyết này. Chúng ta muốn giác ngộ, tự thân ta phải chứng nghiệm mọi điều. Giác ngộ, niết bàn không thể dạy qua sách vở, kinh kệ, không thể truyền tải bằng ngôn ngữ. Chúng ta phải thật sự trải qua mà không cần thiết có người thầy nào.

Siddhartha đã được học từ nhỏ rằng lạc thú thế gian chẳng phải điều tốt lành, nhưng chỉ là học thôi, chàng đã đi, đã tự mình dấn thân vào bẫy luân hồi và chàng cảm thấy may mắn vì đã được trải nghiệm. Đúng thế, trải nghiệm mới mang lại cảm giác rõ nhất, thật nhất. Chúng ta cũng vậy, không thể chỉ đọc sách, đọc kinh, ngồi thiền mà có thể giác ngộ. Ta phải trải qua hỉ, nộ, ái, ố; phải sống như một kẻ vô công rồi nghề, tiếp đó lại sống như một kẻ xa hoa bậc nhất, sống và đội hàng trăm lớp mặt nạ để biết chúng nhơ nhớp, xấu xa đến đâu, phải biết tận gốc rễ của cuộc đời này nhàm chán và vô nghĩa tột đỉnh.

Và rồi chàng mới bừng tỉnh cơn mê, chàng thấy mình trông thật khốn khổ. Nhớ lại ngày từng là một cậu trai quyền quý, thông minh, ngày mình từng là một sa môn khổ hạnh, từng đến học cách làm tình với Kamala, từng là một lái buôn giàu sang tiền tiêu như nước và giờ đây tất thảy đều như một giấc mộng.

Siddhartha đến bên dòng sông ngày ấy, ngủ quên và gặp lại người bạn năm xưa Govinda đệ tử của Đức Phật Cồ Đàm. Govinda không nhận ra anh nhưng khi anh vừa bừng tỉnh đã nhận ra ngay người bạn năm nào của mình. Govinda vẫn vậy, đi du hành và khất thực khắp nơi. Cả hai đã già đi nhiều. Và tôi thấy được ở đoạn này Govinda có vẻ hơi khinh thường Siddhartha vì ăn mặc quần áo sang trọng giống như người phàm tục. Govinda chào tạm biệt anh và lại tiếp tục đi, đi để mong có thể tìm được giác ngộ, tìm được ánh sáng chân lý.

Tôi đang liên tưởng đến những người tu hành tự cho rằng mình là bậc trí giả, hơn người thế tục. Một số thầy tu bây giờ luôn tự cao tự đại, tự thần thánh hoá bản thân vì được người đời gọi bằng thầy, cung kính bái lạy, rơi vào tự ngã. (Phần này tôi tự liên tưởng chứ không phải ý tác giả muốn khắc hoạ hình ảnh Govinda là người như tôi nói ở trên).

Sau khi chào tạm biệt Govinda, Siddhartha nhớ lại ngày nào mình đã được người lái đò chở qua dòng sông này. Chàng lại một lần nữa gặp người lái đò. Có vẻ như câu “đời người luôn gặp nhau hai lần” quả đúng với câu chuyện trên. Với bộ quần áo lộng lẫy, chàng đã phải cố gợi lại cho ông lái đò nhớ về người sa môn năm nào đi ngang đây mà ông đã không lấy tiền. Siddhartha quyết định ở lại với ông vì thấy mình được học hỏi nhiều từ ông. Người lái đò luôn lặng lẽ chở khách qua sông, sống chung với dòng sông và lắng nghe dòng sông phát ra tiếng “Om” mỗi ngày. Siddhartha thấy mình được học từ dòng sông rất nhiều, tiếng dòng sông nói chuyện, tiếng dòng sông cười và mọi thứ tiếng khác. Anh ngắm nhìn dòng sông, màu xanh lục của nó, những đường nét tựa pha lê trong bức vẽ đầy bí ẩn ấy. Tiếng nói trong sâu thẳm con người anh biến mất từ lâu giờ đã quay trở lại. Anh ở lại với người lái đò, ngày ngày cùng nhau làm việc.

Có vài lời đồn đại về hai vị thánh nhân, thức giả sống bên bờ sông nhưng khi đến diện kiến họ chỉ thấy hai người lái đò kiệm lời, dường như người câm. Vậy đấy, bậc giác ngộ chẳng cần phải hoa mỹ, toả hào quang hay tự mãn. Họ chỉ sống trông có vẻ như những kẻ khốn khổ tột cùng nhưng họ hài lòng và vui sướng.

Siddhartha còn học được ở người lái đò cách lắng nghe. Lắng nghe nhiều hơn là nói, điều ấy ông cũng học từ dòng sông. Lắng nghe tiếng “Om” toàn thiện. Khi ta nói nhiều, đầu ta chạy nhiều suy nghĩ và lại đánh mất sự quan sát. Ta học cách lắng nghe nhiều hơn, lắng nghe những âm thanh, những điều tâm sự giãi bày của người khác, lắng nghe những suy nghĩ của mình, lắng nghe tim mình đập, từng dòng máu nóng chảy dọc cơ thể.

Vì vậy tôi không ưa những kẻ sùng đạo luôn nói quá nhiều. Rõ ràng việc nói ấy chẳng đem lại lợi ích gì, mà chính việc nói ấy đã chẳng hề đúng như những gì mà ta được biết, như việc đạt được trạng thái cao siêu của thiền, như rằng ta phải thế này thế kia để đến gần với từ bi, với Niết bàn. Thay vào đó sao mỗi người không tự trau dồi bản thân, lắng nghe và quan sát.

Dòng sông cũng dạy cho ta chẳng có thời gian nào hiện hữu cả. Dù cho qua bao nhiêu năm tháng đi nữa thì dòng sông vẫn ở đấy, vẫn êm đềm trôi, nước chảy đi khắp nơi rồi lại trở về nguồn. Duyên sanh, duyên khởi, duyên đến Siddhartha lại gặp lại Kamala, lần này còn dắt theo một đứa trẻ. Đứa trẻ ấy chính là con trai chàng. Kamala – người Siddhartha yêu thương hết mực chết trên tay chàng.

Con trai họ được sống trong nhung lụa từ bé, ương ngạnh không thể giáo huấn dù chàng đã mềm mỏng yêu thương nó cỡ nào. Đoạn này ta thấy được tình phụ tử còn vượt trên cả mọi loại tình cảm của con người. Nó gấp đôi vì nó bao gồm cả tình yêu dành cho Kamala. Nhưng rồi lại một lần nữa người lái đò kia lên tiếng, hãy nhớ lại ngày anh rời bỏ cha anh vào rừng làm sa môn, cha anh cũng đã đau khổ thế nào. Đấy là nghiệp báo, là vòng luân hồi đầy đau khổ. Ông lái đò nói:

— Anh đã quên mất câu chuyện người con trai Bà La Môn mà anh từng kể cho tôi nghe ở chỗ này rồi ư? Ai đã che chở cho sa môn Siddhartha trước vòng tục luỵ, trước tội lỗi, tính tham lam và lòng điên rồ? Chính là lòng ngoan đạo của người cha, lời khuyên răn của người thầy. Người cha nào, vị thầy nào có thể ngăn nổi chàng trai ấy sống cuộc sống của mình?

Tôi đã lại học được ở đây một bài học mà chính tôi cũng đã từng trải nghiệm, mẹ tôi cũng thế và tất thảy mọi người đều thế. Chẳng ai có thể tránh khỏi những tội lỗi, tự vấy bẩn mình, tự uống chén đắng và tự tìm ra đường đi cho mình. Và chẳng có lời dạy bảo nào có thể ngăn cản một đứa trẻ, những lời dạy bảo suy cho cùng đều vô nghĩa. Chúng ta nghĩ rằng răn dạy con cái, nói những điều đau khổ chúng ta đã trải qua hòng giúp con cái có thể tránh né được những điều ấy mà bước đi trơn tru hơn. Nhưng rồi chúng sẽ vẫn lại gặp những điều ấy và cả những điều khác nữa thì mới có thể trưởng thành. Cho dù chúng ta có yêu thương nó, tha thiết giúp đỡ nó để nó có thể thoát khỏi khổ sở, đau đớn và thất vọng, có chấp nhận chết vì nó mười lần thì cũng chẳng thể mảy may gánh đỡ được định mệnh của nó.

Anh đau đớn, khổ sở nhìn đứa con trai của anh ra đi. Chặng đường thoát khổ của anh chỉ còn một chút nữa thôi là vẹn toàn. Ông lái đò cả đời bên dòng sông ấy đã từ biệt Siddhartha để đến cõi Niết Bàn. Ông ấy đã giác ngộ.

Siddhartha lại một lần nữa gặp Govinda người bạn thân hữu thời niên thiếu của anh, người luôn đi bên cạnh anh. Govinda vẫn đang mải miết đi tìm, đi tìm mục đích ấy, tìm giác ngộ, tìm cõi Niết Bàn và rồi đến già cỗi và khô rục vẫn còn u mê đau khổ. Govinda cầu xin người bạn hãy cho anh một bài thuyết pháp, cầu xin hãy dẫn đường chỉ lối cho anh. Nhưng Siddhartha biết rằng ngôn ngữ là không thể đủ, sự thật mà được nói ra thì chúng chỉ còn một nửa. Chàng biết điều bí nhiệm mà năm xưa chàng đã rời bỏ Đức Phật để đi tìm ấy.

Hermann Hesse khắc hoạ hình ảnh nhân vật Govinda quá đỗi tội nghiệp. Cả đời phụng sự và tu tập, đi tìm chân lý nhưng con đường càng đi càng mụ mẫm tối mịt. Đoạn kết cuối cùng tác giả không nói rằng Siddhartha đã giác ngộ hay đến Niết Bàn mà chỉ mô tả mọi hình dáng, cử chỉ và nụ cười hệt như Đức Phật.

Trong mỗi con người chúng ta ai cũng tiềm ẩn là một vị Phật. Chúng ta cũng có thể là Đức Phật dù cho không đi con đường của Ngài. Cuốn tiểu thuyết này tuy mỏng nhưng mỗi câu văn đều mang những triết lý sâu sắc không hề thừa mứa một chữ nào. Nó dạy bảo những điều ta chưa biết, nhắc nhở những điều ta lãng quên. Ôi còn bao điều tôi thấy được qua quyển sách này nhưng lại chẳng thể nhớ nổi hết mà viết vào đây. Nên dù có xem review này vẫn chẳng thể nào đủ ý mà cuốn sách muốn nói cho chúng ta, nếu bạn thích hãy tự đọc và nghiền ngẫm nó. Đây là cuốn sách tôi chắc rằng mình sẽ phải đọc đi đọc lại nhiều để có thể hiểu thấu nó hơn.

Lời cuối cùng em xin cảm ơn tác giả Hermann Hesse, cảm ơn người chị thân yêu Ni Chi đã tặng em cuốn sách, cảm ơn dịch giả Lê Chu Cầu đã dịch cuốn sách một cách toàn vẹn để em có thể được đón nhận và lĩnh hội những bài học đắt giá từ cuốn sách tuyệt vời này.

Tác giả: Bà Năm

*Featured Image: Thành Trung

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Về quê chăn bò là một giấc mơ xa xỉ

4

(1143 chữ, 5 phút đọc)

Sáng ra ngồi lắng mình trước hiên nhà bên những giọt cà phê tận hưởng một đời sống chậm chạp đang lặng lẽ trôi qua từng ngày. Có tiếng gió mây thổi sau đồi thông, tiếng chim hót ngân nga trên cành cây, tiếng bước chân đi của mấy bác nông dân làm vườn trên con dốc, những hình bóng thấp thoáng của cô thôn nữ đang thu hoạch rau màu, những trái dâu chín bọng đã đến ngày lên đường rời xa quê hương được vận chuyển trên các chuyến xe… Tất cả thứ tiếng cùng cất lên rồi cùng hòa tan vào khung cảnh hữu tình của một thuở thanh bình thơ mộng. Ôi một Đà Lạt mơ màng khiến bao người say đắm gọi tên mà tôi cũng không thể ngoại lệ. Thái Thanh trong nhà từ chiếc loa hát vang: “Rằng xưa có gã từ quan, lên non tìm động hoa vàng ngủ say.” Ừ, tôi cũng đang ngủ say, say quá là say.

Một ngày đẹp trời thế này mà nói nhăng nói cuội về thứ triết học vớ vẩn của tôi thì quả là bậy bạ ngu xuẩn. Triết học có nghĩa lý gì khi mình sống và lãng quên đi những điều ý nghĩa ngay bên cạnh. Có đọc bao nhiêu sách thánh hiền mà trái tim rỗng tuếch thì cũng chỉ là tay trắng về không. Tri thức quả thật là chuyến xe viễn chinh đưa chúng ta đến những chân trời rộng mở, nhưng nếu ngay một bông hoa trong vườn tôi còn không biết đến cơ may để thưởng thức, liệu đứng trước đại dương núi non hùng vĩ bao la, tôi sẽ cảm được gì?

Vậy nên hôm nay quên hết tất cả chúng đi, nói về những điều bình dị bên cạnh, nói về những bụi cỏ bên ven đường, nói về con đường dẫn lối vào khu đồi tôi sống, nói về những con bò vẫn mải mê gặm nhắm đùa vui, nói về ông lão giàu có kích xù là địa chủ của nguyên quả đồi này, nhưng vẫn say sưa với cái thú dắt bò đi chăn mỗi ngày.

Có một ông lão giàu có sống ngoài phố nhưng đã quen với cảnh núi đồi, với những ngày lao động chân lấm tay bùn, quen với mấy vựa rau màu, với mấy con bò nên sáng ra dắt bò đi chơi, thả rong trên đồi, để mặc chúng nhảy múa khiêu vũ với mây trời cây gió, để chúng được vui chơi với thiên nhiên hữu tình. Còn lão, lão cũng có thú vui riêng với việc cuốc đất chăm bón, với những chiếc xe rùa chở đầy cỏ dành dụm. Thỉnh thoảng, lão dừng chân nghỉ ngơi, buôn chuyện thiên hạ với mấy gã làm vườn khác bàn chuyện thế sự. Lão gặp ai cũng mỉm cười, gặp ai cũng hỏi chuyện.

Gặp tôi cũng chẳng khác, nụ cười duyên dáng phúc hậu ấy, những câu hỏi không đầu không đuôi mà đôi lần tôi ngớ người vì không rõ điều mà lão muốn nói. Chẳng hiểu gì, chẳng biết nói gì, nhưng sao hễ trông thấy là dù có cách xa thật xa vẫn muốn mở miệng chào thưa. Đó phải chăng là sức mạnh của một con người thần thái chất phác thật thà lại gần gũi nên luôn thu hút được tình cảm của những người xung quanh.

Ngày nào cũng ngồi dưới hiên nhà nhìn lão mà lòng cuộn trào những mơ ước thèm thuồng. Ước gì người dắt bò đó là tôi, ước gì người đang cắt cỏ hăng say ấy là tôi, ước sao tôi được sống tao nhã thanh đạm. Không chỉ riêng tôi, bao nhiêu người khát khao sống một cuộc đời bình dị đến vậy. Tôi đã đọc được bao nhiêu người trên báo có tham vọng từ bỏ thành phố về quê chăn bò. Nhưng sự thật là gì, thôi đừng có mơ ước viển vông, làm gì có bò mà chăn. Tưởng chăn bò đơn giản lắm sao? Người sống thành phố lâu năm liệu có chịu nổi cảnh mưa nắng dãi dầu cuốc bộ mấy quả đồi kéo lê mấy con bò về nhà khi chiều tàn, sáng ra mở mắt đã phải lụi cụi dắt chúng đi ăn.

Ngay cả tôi cũng lắm khi ảo tưởng. Có thể tôi đã quen với cảnh dầm mưa dãi nắng, có thể tôi đang sống một cuộc đời yên bình nhàn hạ. Tuy nhiên, sống yên bình đến thế này thì lấy đâu ra tiền mua bò để chăn. Hôm bữa thấy ông lão có đời sống mình đang mơ ước nên cũng về nhà bày vẽ thăm dò muốn mua một con bò. Nhưng cha tôi đã đập tan giấc mơ đó của tôi một cách hụt hẫng vì mua bò con cũng cần lắm tiền lắm của. Nuôi một con tưởng đâu dễ dàng lắm sao? Mình nuôi một con chó còn không có cho nó ăn, sống mà nghèo nàn quá còn không nuôi nổi mình lấy đâu ra mà nuôi con vật này kia.

Bởi vậy mới thấy cái khổ của giấc mơ được đi chăn bò. Người giàu có thì sức lực họ không cho phép, điều kiện hoàn cảnh xung quanh họ không cho phép. Về quê chăn bò thế nào họ cũng liệu tính đắn đo, rồi lập gia đình, rồi cảnh quê nghèo ruộng đồng không có đủ môi trường cho con cái họ phát triển. Rồi họ cũng không sớm thích nghi được với quê dã. Người sống được, người sẵn sàng vứt bỏ hết tất cả mọi thứ để được đi chăn bò thì lại nghèo nàn, lại không đủ tiền mua bò, không đủ tiền nuôi bò.

Thực ra thì một khi giấc mơ không đủ lớn, người nuôi chí không đủ sức để vun đắp cho nó, giấc mơ nào rồi cũng chỉ là giấc mơ thôi. Ai muốn mơ gì cứ mơ cho thỏa sức vì đâu ai đánh thuế giấc mơ. Biết thế nên sáng nào ra hiên ngồi ngắm ông lão chăn bò, tôi cũng mơ màng muốn có một con bò để được dắt nó rong chơi trên quả đồi này. Nhưng khi sương mai đã tan biến, nắng đã lên và cuộc sống thật đang quay trở lại, cà phê đã uống sạch, nhạc cũng đã phát đến cuối bài, phải vùng dậy bắt tay với cuộc đời này lại thôi. Còn giấc mơ với mấy con bò ư? Đó chỉ là một giấc mơ xa xỉ thôi mấy bác ạ! Lo mà làm việc đi, đừng có ảo tưởng!

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Tôi không muốn tinh vi với chính mình nữa

(1719 chữ, 7 phút đọc)

Bạn hỏi kiếp trước tôi có tu không mà thông thái như vậy. Tôi cũng mong muốn trở nên thông thái hơn, vì có trí huệ thì sẽ tạo thêm được nhiều trái ngọt lành hơn. Nên tôi vẫn nỗ lực làm gì mình cho là đúng trong hiểu biết của mình khi ấy.

Dù vậy, những gì tôi chia sẻ và đủ duyên để bạn có thể đọc được thông điệp thì không phải vì tôi thông thái, mà tôi chỉ như một ống dẫn, ngày ngày thực hiện sứ mệnh của mình là truyền tải thông điệp cho ai đó. Bạn cũng vậy, bạn cũng là một ống dẫn của Thượng Đế để trải nghiệm chính bạn và giúp người khác cùng trải nghiệm về bản thân họ.

Vì thế, bạn đừng vội tô vẽ hình tượng của tôi hay bất cứ ai. Ta thường dễ lầm tưởng YÊU THƯƠNG với những thứ na ná nó. Ta bị thu hút bởi ai đó phút đầu, rồi chúng ta bắt đầu thêu dệt ảo ảnh của mình về người ấy. Đến khi ở gần, ta thấy “tại sao trước đây anh thế mà bây giờ lại như vậy” “ôi dào, con nhỏ này cũng chỉ có thế thôi” hay “hóa ra em ấy chẳng cool hay đáng yêu như nó tô vẽ trên mạng.” Chúng ta cần thời gian để học bài học chấp nhận, tất cả đều đang tiến hóa. Các ảo ảnh ta tạo dựng sẽ dần bị đập tan để tiến gần đến sự thực. Mà cũng có thể trước đây họ như vậy thật, thì giờ họ thấy chúng không còn thể hiện được chính họ nữa nên họ chuyển mình. Thường chúng ta mắc kẹt vào những lời hứa, những thói quen. Không còn nữa thì ta tuyệt vọng, đau khổ kéo dài, như tụ nước đọng, không thiết tha làm thêm gì nữa.

Tất cả chúng ta đều đã, đang và sẽ trải nghiệm điều ấy. Tôi cũng vậy, đến lúc trải nghiệm thấy đủ, thấy đau khổ đủ, thì tự dưng muốn tìm một con đường bình an hơn, thanh thản hơn. Lúc đó sẽ tự biết con đường quay về bên trong, về gốc rễ của mình. Lúc đó, bạn sẽ đạt đến sự thông tuệ của chính mình.

25 năm trải nghiệm cuộc sống, tôi hiểu rằng đọc sách chỉ dẫn hay nghe trải nghiệm của ai đó tôi chỉ biết được phần thô của tầng sâu ý nghĩa về sự thật của đời sống. Trải nghiệm từ chính mình đến tận cùng sẽ giúp tôi chạm được đến cái biết sâu hơn. Lĩnh hội được thông điệp từ trải nghiệm cho phép tôi đi được tận sâu trong chính mình, mở rộng để chấp nhận mình, đẩy mình lên bậc mới của sự phát triển tâm linh.

Tôi như đứa trẻ liên tục trải qua Wonder Weeks, vì tôi muốn tiếp nhận trải nghiệm, nên trải nghiệm đến dồn dập, tôi bỡ ngỡ với thật nhiều cái mới. Nhưng sau mỗi wonder week đó, tôi lột vỏ, tôi biến tấu. Tôi mang trong mình tâm hồn của một đứa trẻ, tôi cho phép mình trải nghiệm để lĩnh hội thông điệp của Thượng đế, để dần nhớ lại bản chất thật của chính mình. Bởi nếu tôi nhìn chính mình mờ đục, tôi cũng sẽ nhìn thế giới với đôi mắt mờ đục.

Tôi vẫn là linh hồn cần trải nghiệm. Tôi vẫn mới đứng ở vị trí dần hiểu luật chơi để bắt đầu chơi hay hơn trong kiếp này. Mỗi giây phút tôi tập quán sát để nhận ra quy luật của nó để chơi tốt hơn.

Vô minh trong tôi vẫn tiếp diễn, từ lời ăn nết nói, hành vi cử chỉ. Tôi thấy mình còn nói rất nhiều điều không cần thiết, hành động những việc vô nghĩa. Đều là cơ hội để bản thân hiển lộ những hạt mầm cũ đã bị ém đi. Đủ nhân duyên tôi cho phép trỗi dậy để mình có cơ hội đối diện nó. Ban đầu, tôi thấy sự chối bỏ và thiếu can đảm bên trong, tôi thích tìm cảm xúc dễ chịu để lấp liếm. Nhưng tôi nhận ra nó vận hành như vậy là không ổn. Tôi phải thực hành phương pháp khác. Như trong phim Cuộc chiến luân hồi, chúng ta liên tục gặp phải những trải nghiệm tương tự nhau, chúng ta biết trước hết hành vi của chúng ta sẽ dẫn đến đâu, nếu chỉ thực hiện một cách, chúng ta sẽ chỉ nhận về một kết quả như cũ, rồi cứ thế phải học đi cả lại cả một kiếp người trong đau khổ mệt mỏi.

Vậy nên khi ta trải nghiệm đủ rồi thấy mệt rồi là tự động não mở ra, tâm trí sáng lên, tự biết mò dậy mà tìm một cách khác để tiếp cận, để giải quyết.

Để kể bạn nghe mấy ngày vừa qua, đau khổ trong chuyện tình cảm giúp tôi nhìn sâu được hơn những tổn thương cũ. Tôi dần lý giải được gốc rễ của nỗi sợ bên trong, nỗi sợ không còn được yêu thương hiện tại, từ cơn ghen tuông.

Có người dạy tôi phải khôn khéo lên, phải biết cách “dạy chồng, dạy người yêu.” Tôi hiểu đó là cách mà nhiều người phụ nữ giữ chồng mình trong suốt nhiều thế kỷ. Tôi không phán xét gì nó, chỉ là đối với tôi, nó không còn “đúng” với mình nữa.

Tôi không thể yêu cầu “Anh phải làm cái này cho em/làm thế kia cho em mỗi khi em ABC” nữa. Đối phương của bạn có thể vì chiều bạn mà nhất mực nghe theo để chặn tất cả mọi “biến” có thể xảy ra. Nhưng nó không bao giờ giải quyết được cái gốc rễ nếu hành vi của người ấy một đằng mà ý nghĩ bên trong anh ta một nẻo. Tôi không muốn ở bên cạnh một con mèo, gụi vào chân nịnh nọt nhưng không hiểu được nó thực sự muốn gì. Tôi nhận ra tôi không thể áp dụng bất kỳ cái công thức giữ chồng nào trên đời này được. Vì có cái gì để phải giữ cơ chứ?

Nhiều ngày, tôi đối diện với sự nhụt chí, muốn bỏ cuộc, có lúc mình cũng để cảm xúc thù ghét dẫn dắt. Rồi tôi dừng lại, nhìn những hơn thua từ trong những cuộc cãi vã, những vụ thương thảo trên khắp thế giới, nếu coi kiếp đời này là cuộc chiến mình phải giành giật, chắc chắn, mình sẽ thua, có thắng cũng sứt đầu mẻ trán. Cái cốt cán nhất tôi nhận ra được những ngày gần đây đó là, dù với cách nào, nếu bạn muốn giữ ai đó ở bên bạn, nghĩa là bạn đã tự giam cầm chính mình.

Tôi chỉ có thể làm duy nhất một điều, đó là nói lên mong mỏi của mình với anh, và bộc lộ cảm xúc của mình (bộc lộ thế nào vẫn là câu chuyện dài cần học) chia sẻ để cả hai thấy rằng bản thân tôi còn rất nhiều vết thương, và trước khi tôi lành được hết mọi vết thương cũ, tôi phải hiểu căn nguyên vết thương, ôm ấp nó đủ lâu rồi mới tìm được cách trị. Và tôi cần học cả việc chấp nhận là mong mỏi của mình cũng chỉ là mong mỏi lúc ấy, đối phương có toàn quyền chọn làm hay không. Tôi biết ơn vì anh đã luôn thành thực với tôi như vậy. Anh luôn thành thực và luôn làm những gì anh tin là tốt nhất cho tôi. Vì bạn không thể biết mong cầu của bạn nó tinh vi thế nào đâu, kiểu gì mấy lời mình thốt ra cũng phải ít nhiều làm sướng cái bản ngã. Có người ở bên thấu đạt và chỉ lối là một cái ân lớn tôi nhận được hiện tại.

Tôi cũng lờ mờ hiểu, tôi đã cho rằng bản thân mình đã luôn là “nạn nhân”, tôi thấy đáng thương cho mình lắm, nên tôi muốn người khác cũng nên đối xử đáng thương như vậy. Tôi không biết rằng, nó như liều thuốc giảm đau. Tiêm một đôi lần tôi sẽ bớt đau, nhưng dần dà nó nguy hiểm không khác gì cơn nghiện, thiếu là không chịu được, sẽ vắt kiệt sinh lực của mình, hay còn gọi lụy đấy. Nguy hiểm lắm. Cứ nói mãi mình là đứa tổn thương, thì mãi mãi sẽ bị tổn thương.

Để đi tới sự thông tuệ, tôi để cho sự khù khờ dẫn dắt, tôi thử và té ngã, rồi tôi lồm cồm đứng dậy đi tiếp. Có khi có người đi cùng, có khi không. Tôi chỉ biết tôi sẽ luôn thành thật trải nghiệm đến tận cùng chính con người mình. Tôi muốn dần bỏ hết tất cả những quy chụp tôi từng có cho chính mình, cho quá khứ của mình.

Tôi không muốn tinh vi với chính mình nữa.

Một tháng Tám khép lại với rất nhiều thông điệp. Như bạn Trần Nguyên Hưng nói với tôi: “Tháng này hiểu theo một nghĩa sâu hơn là cởi bỏ mọi lớp mặt nạ để quay về với con người thật của mình. Quay lại để biết mình thật sự cần gì, muốn gì và có những góc bựa ra sao. Những thứ thật sự cần thiết, quan trọng sẽ ở lại.”

Vậy nên bạn thương mến, đừng vội thần thánh hóa tôi, tôi vẫn có cho mình những vết sẹo và những vết loang lổ chưa kịp lành.

Vân Anh à, cảm ơn vì sự dũng cảm của bạn. Vì bạn dám yêu, dám yêu theo cách bạn tin, cảm ơn bạn đã thử, dù rất nhiều trầy trật sau đó, vì bạn dấn thân vào con đường khó, và trong sáng tận hiến cuộc đời này. Vì sự khù khờ của mình, vì bạn chấp nhận mình nhiều hơn. Mình yêu bạn, thật nhiều.

Hãy đón nhận mọi vô thường. Tháng 9 rồi, “bắt đầu hồi phục và khởi động những điều mới mẻ” thôi!

Tác giả: The Clearest Bleu

*Featured Image: MabelAmber 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Còn bao nhiêu anh em tôi quên mất chiến tranh đã qua đi?

0

(1195 chữ, 5 phút đọc)

Mấy hôm trước ngồi xem bóng đá cùng ông anh trai. Tôi trầm trồ kinh ngạc như vừa nhìn thấy điều gì lạ lẫm.

Tôi bảo: “Ơ thằng này tên Syria giống nước nó luôn.”

“Áo thằng nào mà chẳng in Syria.” Anh trai tôi nói.

Lúc đó bận mải mê xem bóng đá nên tôi chẳng nghĩ ngợi gì, đến lúc nằm vác tay lên trán trằn trọc nghĩ suy thì mới vỡ lẽ. Tôi xúc động nghẹn ngào nhận ra đó không phải là một cái tên, không chỉ  là một điều thú vị đơn thuần, đó còn là tinh thần của một quốc gia, lòng yêu nước của những con người sẵn sàng bôi xóa đi tên tuổi mình, chỉ còn lại đó một Syria.

Một Syria vẫn còn tồn tại bất diệt trong trái tim mỗi người dân nước họ. Mặc cho tiếng súng đã nổ, bom đạn đã rơi, và cuộc nội chiến đã diễn ra cướp đi một Syria xinh đẹp, đã từng trường tồn hiên ngang hãnh diện cùng thế giới với những công trình kiến trúc đồ sộ vĩ đại. Chỉ còn lại đây những căn nhà đổ nát, thành quách tan vỡ, những trái tim rạn nứt đang trôi chảy trên dòng máu quê hương.

Việt Nam với tham vọng độc chiếm ngai vàng, cầu thủ được trân quý nâng niu như báu vật, nhà tài trợ này nhà đồng hành kia chắp cánh, bao nhiêu yêu thương đổ đầy vào những cầu thủ của chúng ta. Trong khi đó cầu thủ đội bạn dường như vẫn đang còn vật lộn với những gì chiến tranh mang lại, họ thậm chí chẳng còn một mái nhà để về, bao lâu rồi phải xa xứ chia lìa người thân yêu…

Việt Nam đã chiến thắng Syria trong trận tứ kết, nhà nhà đổ bộ xuống phố, người người hò reo vui mừng. Tôi thật cũng muốn hòa chung cùng cái không khí ăn mừng chiến thắng đó, cùng kết quyện tinh thần dân tộc để vui chung với niềm vui của đất nước. Nhưng trong niềm vui kẻ chiến thắng bao giờ cũng tồn tại sự đau buồn của kẻ bại. Chúng ta không quên nhắc đến tên họ với lời lẽ tôn trọng và ngưỡng mộ đối với tinh thần dân tộc mà họ đang muốn khẳng định cùng với thế giới. Để rồi tự biết nhìn nhận lại chính mình, đã may mắn ra sao khi được sống trên một đất nước hòa bình. Nhưng đáng buồn thay, có lẽ một vài người Việt lại không biết mãn nguyện với điều đó.

Vẫn còn có những con người yêu nước da diết đến mù lòa, một tình yêu hoàn hảo trong từng chân tơ kẽ tóc. Tình yêu đó ngày một lớn mạnh, cưỡng bách hết mọi giá trị tầm thường không thể tròn vừa trái tim họ. Họ muốn một đất nước hòa bình, không còn chiến tranh lầm than, máu thôi không còn đổ thành sông, anh em sum họp đầm ấm yên bề gia thất? Không, họ muốn nhiều hơn thế. Lòng tham không đáy không thể dừng lại ở những giá trị bình dị. Phải là một đất nước siêu việt, phải là một cường quốc to lớn, phải là một đời sống sang chảnh tiện nghi hơn. Cái túi họ đang cất giữ phải đổ đầy những ham muốn, đổ vào, đổ mãi cho đến lúc nào sức nặng cái túi đủ để đè bẹp bóp chết trái tim.

Tại sao tôi lại viết ra những dòng chữ vô nghĩa này? Tôi không biết, bởi dù có nói bao nhiêu lời thì trái tim chật hẹp của họ cũng không còn diện tích để bước chân kẻ xa lạ đặt vào. Nhưng rồi vẫn phải ngồi xuống để viết ra, để tự nhắc nhở bản thân tôi mỗi ngày. Sống là đôi khi còn phải biết nhìn xuống dưới chân mình đang có ai còn đang loay hoay chật vật với những bậc thang mà kẻ trên cao kiêu ngạo gọi đó là tận đáy của sự bần cùng.

Hãy nhìn xem một nước Việt đã không còn những hầm hố chất đống hàng trăm vạn xác chết giữa tiếng đạn bom rơi. Những nấm mồ xưa giờ cỏ cũng đã mọc xanh um. Không còn khói lửa giăng mịt kín trời, đã có thể ngân nga dạo khúc tình ca, ngắm nhìn một con chim líu lo trên cành, một bông hoa nở bừng sáng giữa những con đường. Đất nước mình đã không còn chiến tranh, bà mẹ Việt Nam năm nào đã không còn phải chống gậy lom khom, nước mắt ngắn dài lên núi tìm xương con mình. Hãy nhìn xem một đất nước nối dài ba miền Bắc Trung Nam, đã không còn vĩ tuyến 17 trên cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải. Bạn bè ghé thăm Huế, giờ đây tôi đã có thể đường đường chính chính bước hiên ngang qua vạch phân chia ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh ấy để kể về quê hương. Người Việt giờ đây đã có thể viết lên trang sử cuộc đời mình bằng hai từ xuyên Việt, chạy dài bon bon một mạch thưởng ngoạn hết vẻ đẹp phong cảnh nước Nam. Giờ này còn ngồi cà phê chém gió ở Sài Gòn nhưng chỉ vài tiếng sau đã có thể đáp cánh xuống sân bay Nội Bài, lang thang khắp phố phường Hà Nội nhặt lá vàng mùa thu.

Lịch sử đã viết lên một nước Việt anh hùng kiên dũng, một trang giấy mới tinh khôi đã lật sang. Và giờ đây cả thế giới đang nhắc đến Việt Nam bằng một quốc gia độc lập không còn máu đổ trôi sông. Người người nhà nhà vẫn đang hăng hái xây dựng cho mình một cuộc sống hạnh phúc. Tuy vẫn còn đó những cái nhớp chưa xóa sạch, vẫn có đó những vấn nạn chưa thể giải quyết khắc phục. Nhưng phải chăng, so với một Việt Nam bị 1000 năm đô hộ giặc Tàu, 100 năm nô lệ giặc Tây, 20 năm nội chiến anh em chém giết lẫn nhau thì đất Việt giờ đây vẫn xứng đáng để chúng ta mãn nguyện và tự hào về nó.

Vậy mà tôi vẫn cứ luôn phải trông thấy những cuộc nội chiến trong tâm tưởng của một vài anh hùng Việt thời nay. Đất nước tôi đã không còn chiến tranh, nhưng sao anh em tôi vẫn còn giết nhau, vẫn chưa thể đi chung một cuộc mừng, vẫn nói về chuyện non nước mình nhưng lời lẽ thì sặc mùi máu dữ. Gió hòa bình đã bay đi muôn hướng cõi trời Nam, nhưng sao ngày vui vẫn còn quá xa xăm. Con thuyền hận thù vẫn còn lênh đênh giữa trùng khơi sóng biển. Đến bao giờ anh em nước Việt mới được nối một vòng tay lớn từ Bắc vào Nam.

Đến bao giờ anh em tôi mới nhận ra đất nước mình đã không còn chiến tranh?

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: sasint

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Nét đẹp của sự trống trải

0

(1000 chữ, 4 phút đọc)

Sự trống trải là một cảm giác rất đáng sợ đối với con người, không có gì để làm, không có gì để nghĩ, nó giống như chết vậy thậm chí nó còn gây khó chịu hơn là chết vì ta ý thức được ta đang như vậy. Bạn luôn được dạy rằng ta phải phấn đấu nỗ lực để hoàn thành ước mơ này, thực hiện đam mê kia chẳng hạn hay là cố gắng thay đổi bản thân trở nên tốt hơn, tích cực hơn. Nhưng chắc bạn cũng đã nghe đâu đó rằng chỉ cần ta toàn tâm toàn ý làm một việc gì đó, thì vũ trụ sẽ giúp ta hoàn thành việc đó, không thì đã nghe khoa học công bố đại loại như suy nghĩ có lực hút gì đấy, chỉ cần ta cố gắng hết sức mình làm một việc thì nhất định sẽ thành công.

Vậy trước khi làm việc gì ta muốn nỗ lực đạt được nó, thì chỉ cần cố gắng là đạt được rồi. Trước khi làm đã biết nó sẽ được, tâm trí ta lúc này sẽ nổi lên suy nghĩ: Làm được thì sao mà không được thì sao? Chưa làm được mà đã biết sẽ mình làm được, làm được rồi thì có khác gì lúc chưa làm, vì lúc chưa làm đã biết mình làm được chẳng khác nào việc đó đã hoàn thành ngây từ lúc đầu. Khi bạn đã có suy nghĩ ấy rồi thì còn việc gì để bạn làm hay để bạn suy nghĩ giải quyết một vấn đề nào đó bạn thắc mắc nữa. Người như vậy sẽ luôn có cảm giác trống trải trong thâm tâm.

Nếu đơn giản hoá tâm lý học tính cách thì trên đời chỉ có hai loại người, một là người sống lí trí, hai là người sống tình cảm. Loại thứ hai người sống tình cảm thường sẽ có suy nghĩ như trên dẫn đến có cảm giác trống trải, vì thường những người này luôn mơ mộng. Họ như là một họa sĩ luôn luôn tưởng tượng vẽ ra tương lai phía trước, thậm chí cả cảm giác và suy nghĩ khi hoàn thành một việc mà mình chưa bắt đầu làm trong hiện tại. Họ dễ bị những người khác cười nhạo, xa lánh và kì thị vì sự thiếu thực tế, đa sầu, đa cảm phóng đại cảm xúc của chính mình. Thường thì người ta gắn khái niệm về loại người này sống bằng trái tim nhiều hơn bằng đầu óc, nhưng theo tôi thấy kiểu người này suy tư còn nhiều hơn cả người sống lí trí, chỉ là cách suy tư của họ khác biệt thôi.

Sự suy tư cũng giống cuộc đời của con người. Lúc mới suy tư, ta tiếp nhận những tư tưởng mới lạ giống như đứa trẻ lần đầu tiên thấy một chiếc xe đồ chơi vậy. Dần dần khi lớn lên, ta không chỉ chơi chiếc xe tí hon đồ chơi đó nữa, mà có hẳn một chiếc thật to đùng do chính ta lái. Với ta bây giờ chiếc xe đó bình thường như bao mọi vật như chiếc điện thoại thông minh ta đang xài, hay căn nhà ta đang ở. Suy tư của ta bây giờ như đứa trẻ đã lớn không còn cảm giác ngạc nhiên như lần đầu, mọi thứ ta đã suy tư bây giờ không còn cấp thiết như lúc trước.

Có xe, có điện thoại, có nhà thì bạn sống sung túc, không có những thứ đó thì bạn sống khó khăn hơn nhưng bạn vẫn sẽ sống thôi, không có ảnh hưởng gì nhiều. Suy tư cũng vậy, không có nó ta cũng sống bình thường thôi. Chắc bạn đã nghe người khác nói người mà có tâm trí trống rỗng là ác quỷ, ác quỷ thì đã sao không phải nó cũng tồn tại bình thường với thiên thần sao. Từ khi nào con người có khái niệm rằng thiên thần tốt hơn ác quỷ? Nếu thực sự thiên thần tốt hơn ác quỷ thì tại sao ác quỷ lại tồn tại, không phải con người luôn muốn cái tốt hơn sao. Con người luôn muốn lên thiên đường làm thiên thần, nhưng họ lại không muốn chết. Con người luôn có những khái niệm khái niệm khôi hài, thậm chí họ đóng khung Thượng Đế thành một khái niệm triết lý để tôn thờ.

Cái cây, cọng cỏ, con mèo không cần suy tư vẫn có thể sống, con người là gì níu bám vào nó để sống chứ. Sự trống trải là cảm giác dù muốn dù không gì nó cũng đến với bạn rồi, vậy sao bạn không chấp nhận nó ngay từ đầu, quan sát nó, tận hưởng nó thay vì sợ hãi, chối bỏ và trốn chạy nó. Người suy tư nhiều luôn mang gánh nặng theo trong đầu. Khoảnh khắc bạn cảm nhận sự trống trải trong tâm khảm mình, bạn không cảm thấy một sự thảnh thơi sâu sắc quăng bỏ gánh nặng khỏi đầu mình sao? Không còn gì để nghĩ, không còn việc gì buộc phải làm, không còn nơi nào buộc phải đi – một sự tự do hoàn toàn. Chỉ còn lại một sự trống trải bao la trong bạn. Một cảm giác vui sướng sâu trong thâm tâm, bạn không nhận ra nó sao. Bạn muốn tự do hay làm nô lệ cho chính tư tưởng của mình? Hãy luôn luôn quan sát thâm tâm mình với sự chấp thuận hoàn toàn, bạn rồi sẽ nhận ra dù là sự trống trải cũng có những nét đẹp riêng của chính nó. Vì là tờ giấy trắng nên ta có ý tưởng vẽ bất cứ những gì ta muốn, một khi tờ giấy đã có bức vẽ rồi thì ta không thể vẽ thêm được gì nữa.

Tác giả: Khongcoten

*Featured Image: jplenio 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Làm sao để vượt qua nỗi sợ hãi?

0

(1150 chữ, 5 phút đọc)

1. Câu chuyện về nỗi sợ

Giữa những chương trình luyện tập khắc nghiệt của Hải quân SEAL (Mĩ), có một bài kiểm tra đơn giản hơn: Nhảy feetfirst xuống nước, bơi một vòng bể, đạp vào thành bên kia, và bơi lại-tất cả được thực hiện mà không có một giây nào để thở.

Nghe thì tưởng đơn giản, nhưng qua các năm, không nhiều sĩ quan mới có thể hoàn thành bài kiểm tra này trọn vẹn. Một số đã đạp vào thành bể bên kia nhưng ngất xỉu khi bơi trở lại, trôi bồng bềnh trên mặt nước như những con cá chết. Về mặt thể chất, họ đều có thể vượt qua bài kiểm tra. Tuy nhiên, dường như các sĩ quan này chạm tới một điểm mà họ nghĩ rằng họ không thể bơi thêm nữa. Họ tự nhắc chính mình rằng họ không thể, và họ hoảng sợ và đốt cháy oxy nhanh hơn, và cuối cùng, ngất đi. Họ đã sợ.

Nỗi sợ là một phần của cuộc sống theo cách nào đó. Chúng ta bắt đầu các kỳ thi và sợ rằng mình không thể vượt qua; chúng ta bắt đầu một trận bóng đá lo lắng rằng mình sẽ thất bại; chúng ta viết lách sợ hãi rằng kĩ năng của mình thật kém cỏi. Cuối cùng chúng ta thoả mãn những nỗi sợ ấy. Chính kiến thức cho kỳ thi mới là điều mà chúng ta nên tập trung vào, và chính những kỹ năng đá bóng mới nên là trung tâm của trận đấu, và chính kĩ năng viết của chúng ta mới hoàn toàn là thứ chúng ta muốn rèn luyện. Điều chúng ta nên đưa vào công việc không phải là nỗi sợ. Khi đối mặt với một thử thách khó khăn, chúng ta thường tránh nhìn thẳng vào vấn đề mà sợ hãi. Điều này vô tình làm cho những nỗi sợ ấy lớn lên tới một kích thước mà đôi khi, chúng ta không kiểm soát được nữa.

Nói đơn giản, chúng ta đối phó với nỗi sợ bằng cách để nó phát triển âm thầm. Những thực tập sinh của SEAL chắc chắn biết rằng họ cần phải bình tĩnh. Nhưng đó là một cái cần lớn. Họ để cho nỗi sợ hãi phát triển và tràn ngập tâm trí của họ; sau đó, nó làm xói mòn sức mạnh của họ và đẩy họ vào vô thức. Khi chúng ta ngồi trong phòng thi, đôi khi chúng ta chạy trốn khỏi thực tế và trú ẩn dưới sự sợ hãi của chúng mình, cho phép chúng xâm nhập tâm trí và hạn chế khả năng của chúng ta để giải quyết vấn đề. Xin đừng hiểu lầm, tôi không tẩy chay nỗi sợ. Nỗi sợ nói riêng những thử thách tinh thần nói chung, thực sự là ‘cái bóng’ của chúng ta. Dưới ánh mặt trời, cái bóng luôn ở đó, dù muốn dù không.

2. Vấn đề là gì?

Nỗi sợ đáng sợ nhất chính là nỗi sợ những sợ hãi. Chúng ta run rẩy trước những nỗi sợ của mình đến mức chúng ta mất kiểm soát chúng. Chúng ta cố gắng kiểm soát, nhưng thường thất bại. Tại sao?

Bởi vì nỗi sợ thực ra là một bóng ngựa ngang bướng và bất kham. Hơn nữa, nó được mã hóa trong DNA của chúng ta và một phần của bản chất của con người. Chúng ta phải thừa nhận rằng sợ hãi là không thể tránh được; chúng ta và bóng của chúng ta không tách rời và không thể tách rời. Các trung sĩ e ngại rằng họ sẽ không hoàn thành nhiệm vụ, nhưng vấn đề chỉ xuất hiện khi họ bị chết đuối trong nỗ lực chạy trốn khỏi nỗi sợ đó. Chúng ta lo lắng nếu chúng ta thất bại trong các kỳ thi, nhưng vấn đề là chúng ta không dừng lại và xem xét sự lo âu đó chỉ vì chúng ta quá bối rối khi phải đối mặt với nỗi kinh hãi của chính mình. Chúng ta tiếp tục viết trong sự bất an và trong sự quy phục những hoảng hốt bồn chồn. Chúng ta không hiểu rằng thời điểm chính mình đầu hàng nỗi sợ và tiếp tục cuộc sống dưới trướng của nó cũng là lúc chúng ta ngừng bơi và chìm đắm trong cái bể của tăm tối.

3. Tôi nên làm gì?

Chúng ta không nên bỏ qua nỗi sợ của mình. Chúng ta cũng không nên chiến đấu và đánh bại chúng. Chúng ta nên chấp nhận và kết bạn với chúng.

Bạn có thể tự hỏi: “Chấp nhận nỗi sợ ư? Kết bạn với những gì đã làm cho tôi trượt? Thật điên rồ!” Tôi không phủ nhận. Ý tưởng này nghe có vẻ vô lý nhưng hãy nghĩ về nó. Bên ngoài những cái bóng là ánh sáng mặt trời và ở phía bên kia của hồ bơi sợ hãi là vạch đích. Sợ hãi là một người bạn quan trọng của người thắng cuộc. Khi đôi mắt của bạn nhìn thấy sự tối tăm của những cái bóng và làn da của bạn cảm thấy sự lạnh lẽo của làn nước vô cảm, bạn biết rằng mặt trời đang rọi sáng vạch đích ở thành bể bên kia. Nỗi sợ chỉ dẫn bạn đến chiến thắng; khi nước bịt lấy đầu mũi và sợ hãi làm ngập tâm trí bạn, bạn biết mọi thứ đang trở nên thú vị. Khi bạn chấp nhận nỗi sợ hãi làm bạn của mình, cuối cùng bạn sẽ thoát khỏi vòng lặp nghịch lý của nỗi sợ những sợ hãi. Bởi vì bây giờ, bạn không còn hoảng hốt trước nỗi sợ của chính mình nữa. Bạn chấp nhận nó là một phần của trò chơi, bạn để nó kích thích bạn, nhưng không kiểm soát bạn.

Tâm trí cần đứng yên để cơ thể có thể di chuyển. Cách duy nhất để chạy thoát những cái bóng là đứng yên dưới những cái bóng. Tâm trí chúng ta nên dừng lại để quan sát và tìm hiểu những gì chúng ta sợ, để nhận ra rằng những cái bóng chẳng thể xoá được, và là bạn của chúng ta. Hãy bảo tâm trí của bạn ngừng hoảng loạn để cơ thể bạn có thể bắt đầu sải tay trên đường bơi.

Kẻ thù duy nhất của chúng ta là nỗi sợ những sợ hãi, nhưng nó lại là người bạn tốt nhất của chúng ta. Chỉ sau khi chết chìm dưới dòng nước, tâm trí ta mới thoát khỏi những cái bóng. Khi ấy, đôi mắt của chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy được mặt trời đang soi sáng vạch đích ở bờ bên kia.

Tác giả: Sang Doan

*Featured Image: Pexels

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Quốc Khánh 2/9 – Nhà nhà treo cờ để làm gì?

0

(1262 chữ, 5 phút đọc)

Sáng nay ra phố, muốn ngồi trong quán cà phê nhìn thật lâu phố xá, dành dụm dự trữ cho mấy ngày lễ đóng cửa chôn chân trong núi. Đã sống qua bao dịp lễ nhưng dịp nào cũng không làm quen được trước biển người chen lấn xô đẩy đi trẩy hội. Trong lúc chăm chú ngắm nhìn một chú lớn tuổi đang tỉ mỉ treo cờ trước hiên nhà, tôi vô tình nghe được những lời không hay ho của một vài người ngồi bàn bên cạnh. Không tiện nhắc lại lời chửi bới thậm tệ, cũng không có ý muốn khẳng định với ai về quan điểm chủ quan riêng tôi. Chỉ là tôi không thể hiểu được hành động mọi nhà treo cờ vào dịp lễ, thực sự chướng tai gai mắt với một số người vậy sao?

Lễ Quốc Khánh 2/9 đang đến gần. Dịp lễ lớn bao giờ mọi người cũng được nghỉ phép, ra đường đi đâu cũng ngập tràn sắc cờ đỏ sao vàng tung bay phất phới trên mọi nẻo đường. Lịch sử đã dạy dỗ, 2/9 được xem là Quốc Khánh của dân tộc Việt Nam, là ngày chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập đánh dấu một cột mốc mới trong trang sử hào hùng của dân tộc ta. Đọc đến đây nếu có vị hào kiệt nào cảm thấy bức bách khó chịu vì nghĩ rằng 2/9/1945 không phải là Quốc Khánh Việt Nam. Bạn đọc được những ghi chép trước đó 11/3/1945 quốc trưởng Bảo Đại đã đọc bản tuyên ngôn độc lập trước toàn dân và đại sứ Nhật Bản, tạo ra một chế độ mới khi ấy Bắc-Nam chưa chia cắt. Rồi chính phủ Trần Trọng Kim thành lập sau khi tuyên bố độc lập là tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa. Bạn tin rằng ai đó đã lật đổ chính quyền Trần Trọng Kim và giết ông ấy, rồi tự xưng là quốc trưởng viết ra bản tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, tuyên bố độc lập trong khi Việt Nam đã độc lập. Bạn cương quyết bảo vệ những thông tin được ghi chép trong tâm trí bạn. Ngày độc lập của Việt Nam là 11/3/1945, do quốc trưởng Bảo Đại tuyên bố, chứ không phải 2/9/1945. Tôi tôn trọng tất cả ý kiến mà bạn đã cất công tìm tòi và xây dựng trong thư viện dữ liệu lập trình cho riêng bạn. Cũng như tôi cũng rất yêu quý những điều mà tôi đã đầu tư thời gian và sức lực để vun đắp riêng cho tôi. Trong hồi ký của Cựu Hoàng Bảo Đại mà tôi từng đọc qua, tôi vẫn nhớ rõ câu nói: “Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước nô lệ.” – được viết trong Tuyên Ngôn thoái vị mà Cựu Hoàng Bảo Đại đã đọc trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn chiều 30/8/1945. Nếu thực sự có một nước độc lập dưới tay Bảo Đại, ông ấy chắc hẳn không cần phải hổ thẹn khi nói ra những lời này?

Dạo một vòng quanh phố phường lịch sử, tôi không có ý đưa bạn đến nơi đâu xa lạ, chỉ là một vài sơ lược để bạn đọc hiểu rằng lịch sử Việt Nam đã viết tên ngày 2/9/1945 chính là ngày Quốc Khánh Việt Nam. Đó là câu chuyện của quá khứ mà thế hệ chúng ta ngày nay đang đón nhận bằng việc treo cờ tưởng nhớ một ngày trọng đại của dân tộc. Nó đã trở thành một nghi lễ quen thuộc, thể hiện lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí độc lập, tự chủ của dân ta. Vâng, đó là câu chuyện trên lý thuyết nghĩa vụ một công dân.

Thực tế là hành động treo Quốc Kỳ trong những ngày lễ lớn không ghê gớm như bạn vẫn nghĩ. Nó không phải là một hành động chính trị hay tư tưởng như bạn vẫn đang suy diễn. Tôi đã thấy bao nhiêu gia đình xung quanh tôi háo hức treo cờ để chờ đợi đến ngày nghỉ lễ, không phải vì họ có những lý tưởng cao xa như một số vị anh hùng hào kiệt nào đó. Dịp lễ lớn là dịp họ được nghỉ ngơi thư giãn sau một thời gian dài làm việc vất vả. Những ngày nghỉ kéo dài là chuyến xe đưa đón họ đến những chân trời xa, là những ngày được vi vu thưởng ngoạn tận hưởng giây phút ngọt ngào hạnh phúc bên gia đình. Bạn bè tôi trông đợi ngày lễ để được làm việc với chi phí nhân công trả gấp hai gấp ba ngày làm việc bình thường. Một số cụ già bô lão trong xóm tôi chờ đợi ngày lễ để đón con cái họ tha phương trở về sum họp đoàn tụ ngồi chung vui bên một mâm cơm gia đình. Họ biết cách tận hưởng những ngày lễ, họ không quan tâm đến lịch sử. Họ chỉ biết sống ở hiện tại, họ không còn muốn nhớ về một quá khứ đau thương tan nát.

Cũng nhắc đến những người treo cờ trong ngày lễ chỉ bởi mang tính hình thức, không phải người dân Việt Nam nào sinh ra cũng mang theo trong mình sứ mệnh thiêng liêng cao cả, họ chỉ cần một cuộc sống bình dị, một đất nước yên bình. Chính vì thế mà ý nghĩa của việc treo Quốc Kỳ trong ngày lễ, họ không quan tâm, họ chỉ treo vì đó là một thói quen, một sắc lệnh mà cấp trên ban xuống, và họ thực hiện nó nghiêm chỉnh như đó là nghĩa vụ của một công dân. Họ không suy nghĩ nhiều và cao xa như những anh hùng tự nhận mình yêu nước. Họ cũng không đủ khả năng để gánh vác những trọng trách to lớn vĩ đại mà các bạn đang cưu mang. Vậy thì hành động một ông già mang cờ Tổ Quốc ra treo trước hiên nhà có đáng để mang ra bới móc và xúc phạm? Tôi không thể trả lời giúp bạn, tất cả đều có câu giải đáp thích đáng trong tự thân mình.

Và thực sự là nếu người dân Việt Nam treo Quốc Kỳ trong các dịp lễ để thể hiện lòng tôn trọng với đất nước, với biểu tượng thiêng liêng của dân tộc, có gì sai? Bạn đã từng trông thấy biển người tràn ngập với sắc đỏ sao vàng tung bay ngập kín bầu trời nước Nam khi U23 Việt Nam trở về sau những trận thi đấu trong khoảng thời gian gần đây. Bạn không thấy xúc động vì hình ảnh đó? Bạn thực không trông thấy một tinh thần dân tộc đoàn kết hiếm có trên thế giới mà bạn bè nước khác đang có thể ghen tị? Bạn có thực sự yêu nước và muốn khoác chung một màu cờ dân tộc? Một lá cờ thì có ý nghĩa gì, người ta đem bán tràn lan đại hải trong chợ, ngoài đường phố, cũng chỉ được may ra từ những mảnh vải chắp nối từ miếng vụn này khúc vải thừa kia. Nhưng nó là tinh thần yêu nước, là tinh thần dân tộc.

Vậy thì cờ Tổ Quốc kiêu hãnh tung bay hai bên đường, trong lòng mỗi người dân Việt dâng trào niềm tự hào mình là người con Đất Việt, có gì sai?

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: tintucvietnam

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Đứa trẻ lớn lên để trở về đứa trẻ

1

(1202 chữ, 5 phút đọc)

Hôm nay tôi chợt nhớ về những ký ức tuổi thơ ngọt ngào của mình ở chốn thốn quê dân dã – nơi vắng mặt những ồn ào của phố xá bộn bề lo toan, nơi chỉ toàn ánh mặt trời dịu êm với những hàng cây đung đưa ngợp bóng. Tất cả những gì hiện ra là nét trong trẻo ngây thơ hòa lẫn trong tiếng cười hay tiếng khóc của một tuổi đời non nớt. Rồi tôi bỗng tự hỏi rằng tại sao ngày bé mình có thể hạnh phúc hồn nhiên được như vậy mà khi lớn lên, những ưu phiền đau khổ lại dễ dàng thâm nhập và bám rễ vào cuộc đời mình đến thế?

Hồi nhỏ, tôi vẫn thường quanh quẩn ngoài bãi cỏ trước nhà, ngồi thu lu một chỗ nào đó quan sát đàn kiến con đang bò về tổ trong niềm say sưa khôn tả. Rồi một lúc sau, tôi dùng tay khều khều những ngọn cỏ xanh trước mắt đầy thích thú. Nhưng khi thấy chúng ram ráp và ẩm ướt, tôi lại thu tay về. Tôi cúi xuống nhìn vào chân mình đang đi đôi dép con mèo màu đỏ, và tôi chuyển sang nghịch nghịch cái mắt kính của con mèo rồi mau chóng quên luôn đám cỏ và lũ kiến.

Vậy mà bây giờ, có những lúc tôi chẳng dành cho mình chút thời gian để ăn một miếng cơm cho trọn vẹn, chẳng thể hết lòng với một lần đứng tắm dưới vòi sen, và cũng nhãng đi những vần điệu trên trang sách đang lật giở khi mải mê nghĩ về một chuyện buồn ngày hôm trước. Tôi không hiểu được tại sao những say mê dành cho thế giới thuở nào nay đã cạn khô đến tàn nhẫn theo sự lớn lên của xác thân này. Có phải tình yêu và sự tò mò của tôi đã bị thiêu đốt bởi chính những vội vàng và xốc nổi bên trong lòng? Có phải nếu dừng lại thêm một phút giây nữa thôi, tôi sẽ lại cảm thấy lũ kiến, đôi dép con mèo và bãi cỏ năm nào?

Tôi vẫn nhớ như in những ngày mình cùng con chó béo ục ịch màu vàng nâu chạy nhảy ngoài cánh đồng còn trơ những gốc rạ và đuổi theo những con cò trắng muốt. Dù biết chắc chắn rằng sẽ không bao giờ bắt được con cò nào nhưng tôi vẫn cứ chạy theo chúng vì niềm vui lúc ấy chẳng hề nằm trong chuyện bắt được mà ở ngay chính việc đuổi theo. Còn con chó béo thấy tôi chạy thì cũng hùa theo đầy phấn khích. Sau một hồi rượt bắt, cả tôi và nó đều mệt bở hơi tai nhưng lại thấy hạnh phúc vô bờ bến. Hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục trò chơi đó với thêm một người bạn nữa.

Vậy mà bây giờ, có những lúc tôi e sợ phải tiến lên khi nghĩ về những khả năng có thể không thành tựu như mong muốn. Tôi run rẩy trong những toan tính cho một thành tích mơ hồ nào đó trong tương lai để rồi kiệt quệ với tâm tư không lối thoát của chính mình. Phải chăng, tôi nên để tất cả bay đi như những con cò trắng kia và chỉ hết lòng vui chơi giữa một cuộc truy đuổi hồn nhiên nhất?

Tôi vẫn chưa từng quên hồi bé mình lang thang cùng đám bạn ở những đoạn đường mòn, mang theo vỏ lon bia để chơi trò bữa cơm ấm cúng. Chúng tôi đứa thì mang được một nắm gạo từ nhà, đứa thì vặt đám hoa dại ven đường để bỏ hết vào nồi nấu, còn có đứa thêm luôn cả mớ sỏi li ti nữa. Nhưng rồi đến cuối cùng, trên bếp lửa bé tý teo bập bùng được dựng nên từ ba viên gạch, tất cả thức ăn cháy đen thui còn cái lon bia thì bị nóng quá mà thủng luôn cả đáy. Lũ chúng tôi cứ cười bò ngặt nghẽo và bảo nhau rằng cả nhà ta hôm nay chết đói cả lượt rồi và chúng tôi mau chóng dùng cái nồi thủng đen đúa đó để chơi trò ném lon rồi cãi nhau chí chóe.

Vậy mà bây giờ, có những chuyện chẳng nằm trong kỳ vọng xảy ra và tôi cứ thế ôm ấp chúng bên mình với nỗi niềm bất mãn chán chường. Rồi phải mất nhiều ngày trời, thậm chí nhiều tháng năm trời để có thể quên đi những chuyện buồn ấy. Trẻ thơ đã luôn tìm thấy một lối ra, một góc nhìn khác với cuộc đời, vậy tại sao khi lớn lên, tôi lại để cho khả năng ấy bị thui chột? Phải chăng, tôi nên cầm dép và lia vào những cái lon bia của thất vọng, cho chúng đổ kềnh càng rồi lăn lốc lốc trên nền đất cùng một mẻ cười đắc thắng hả hê?

Hôm nay nhớ về tuổi thơ tôi chợt nhận ra rằng chúng ta lớn lên cũng là để học cách trở về thơ trẻ. Đến một lúc nào đó ta sẽ nhận ra bức tranh tương phản giữa những hồn nhiên trong sáng và những lắt léo mưu toan để biết được cái gì cần chăm tưới và cái gì cần gạn lọc mỗi ngày. Chỉ đến lúc ấy, những điều hạnh phúc mới thật sự là vĩnh cửu vì chúng không còn là một sản phẩm có sẵn tự nhiên nằm trong những ngây dại của bé thơ, mà là một thứ ta thật sự chạm tới bằng sự thấu hiểu và nỗ lực luyện rèn. Đó cũng chính là lý do tại sao những em bé hồn nhiên có thể lớn lên thành một người lớn khổ đau, nhưng một người lớn hạnh phúc sẽ không bao giờ quay về đau khổ nữa, vì họ đã chuyển hóa tất cả những hạt mầm bóng tối thành sự sáng trong của một mầm non không vết tỳ.

Có phải những ký ức tuổi thơ đang kéo tay tôi quay về với nó, hay thực ra, chính tôi đang mang những niềm hạnh phúc say mê của thời bé bỏng vào trong những phút giây của tuổi trưởng thành? Dù sao chuyện đó cũng không còn quan trọng nữa rồi vì tôi đã nhận ra rằng những sự hồn nhiên tươi mát vốn dĩ luôn hiện diện trong bất kỳ dấu vết thời gian nào và trong bất kỳ dáng hình con người nào.

Từ nay, tôi sẽ vẫn vui vẻ nghịch bong bóng xà bông ở những kẽ ngón tay trong lúc tắm. Tôi sẽ vẫn ngắm nhìn những giọt nước bắn lấp lánh tung tóe trong lúc rửa rau. Tôi sẽ vẫn lang thang ngoài sân chiêm ngưỡng một con chuồn chuồn đậu ngủ. Tôi sẽ vẫn chạy đuổi theo những con bươm bướm trắng dập dờn ngoài bờ đê. Tôi sẽ vẫn xếp những chiếc lá rụng rơi thành hình thù kỳ quặc.

Tôi sẽ cười, sẽ khóc và sẽ trở về là đứa trẻ ngày xưa.

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

*Featured Image: langll 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

 

Đừng sợ hãi những con quỷ trong bạn

0

(1356 chữ, 5 phút đọc)

Nếu ai đó nói rằng họ hiểu bạn. Đừng nhẹ dạ cả tin lời kẻ nịnh nọt. Bạn thừa thông minh nhận ra: “Bạn đôi khi còn không hiểu nổi chính mình.”

Bạn dễ dàng quán xuyến được, đó là việc có khi bạn hài lòng, nhưng đôi khi tâm trí bạn đấu tranh dằn vặt giữa có không, nên và không nên, có khi hiền lành dung dị, khi lại hung dữ cục cằn. Quá quen với hai luồng gió thổi qua tâm trí, bạn tự huyễn có một con quỷ, con còn lại phải chăng là thiên thần? Tuy nhiên, sự thật chỉ có hai, hay còn có ba, có bốn?

Chẳng có gì phải hoảng hốt sợ hãi vì đó là căn nguyên nguồn cội của con người. Những con người với hình dáng bên ngoài đang đội lốt che dấu con quỷ. Vậy có bao nhiêu con quỷ hóa trang thân phận con người ẩn nấp trong bạn?

Câu trả lời của tôi là có rất nhiều. Sứ mệnh của chúng là tu luyện và trải qua vạn kiếp nạn để chạm đến hào quang, và cũng có những con khác khoác áo thiên thần. Chính vì thế luôn có những cuộc tranh cãi diễn ra trong chính tâm trí bạn, những cuộc vật lộn giữa ác quỷ và thiên thần.

Chúng tồn tại song song, chưa bao giờ có một điểm cắt, không thể tương trợ, chỉ luôn ganh tị. Chưa bao giờ chung sống hòa bình, luôn biết cách làm khổ phần kia. Nhưng chúng chưa bao giờ gây đổ máu ngay trên quê hương khốn khổ mặc dù quỷ hay thiên thần cũng đều sống với lý tưởng bảo vệ cái tôi được xem là sứ mệnh.

Đôi khi chúng ta cảm thấy mình yêu cuộc sống, yêu quý những người xung quanh, nhìn cuộc sống bằng những màu sắc tích cực. Một ngày thiên thần thức dậy và biết ơn cuộc đời bằng tất cả đơn sơ nhỏ bé nhất. Nhưng cũng có hôm mây đen giăng kín phủ bầu trời, mặc dù chúng ta có thể ngồi trong nhà tận hưởng một ngày mùa đông ấm áp thì con quỷ vẫn cố soi cái nhìn ra ô cửa sổ để than vãn oán trách. Ta ngồi trong nhà nhưng vẫn cố rình rập, nhòm ngó, bình phẩm bên ngoài bằng sự tiêu cực.

Con quỷ trong bạn luôn đòi hỏi những gì khiến nó hài lòng, không bao giờ chịu khuất phục. Nó muốn đơn độc, muốn uống máu tươi từ đời sống, nhìn mọi thứ xung quanh dưới nhãn quan của bóng đêm, khinh miệt mọi sự, kiêu căng khinh bỉ tất cả những gì thuộc về thiên thần. Thiên thần với sứ mệnh cảm hóa linh hồn ác quỷ. Tuy không giết chết được con quỷ dã thú, vẫn biết cách để con quỷ chán chường, mệt mỏi và thỉnh thoảng muốn tìm nơi nghỉ ngơi. Con quỷ muốn tự do, hoang dã mạnh bạo. Thiên thần ngược lại chỉ muốn những điều tốt và sự dịu dàng, ghét tất cả sự phẫn nộ giận dữ trong bản tính con quỷ.

Khi đứng trước sự trần trụi của chính mình, bạn thấy mình thật bất hạnh. Chúng ta muốn được sống trọn vẹn, yêu thương trọn vẹn chứ không phải kiểu nửa mùa. Nhưng đó không phải là bất hạnh như bạn nghĩ, mặc cho đôi khi ta là quỷ, đôi khi ta là thiên thần. Chúng chưa bao giờ lẫn lộn vào nhau. Chúng vẫn có thể thở chung một bầu không khí. Chúng giúp chúng ta nhìn trọn vẹn khuôn mặt cuộc đời qua nhiều thiên hướng. Chúng biết cách sống hòa hoãn, rõ ràng là chức năng chúng không lẫn lộn. Điều đó tạo ra những giây phút ngắn ngủi trong cuộc đời bạn, may mắn nhìn thấy những điều phi thường mà nếu chỉ là một trong quỷ hoặc thiên thần thì bạn sẽ bỏ lỡ.

Có một sự thật, khi bạn đủ khả năng để hiểu và linh cảm thấy sự tồn tại của quỷ và thiên thần đang cư ngụ trong linh hồn mình, bạn còn có thể nhận ra không chỉ là hai, mà thậm chí là ba, là rất rất nhiều những con sói, con báo, con mèo đang cùng chung sống trong tâm tưởng bạn chẳng khác gì một thiên đường lộng lẫy. Bạn sẽ không còn đổ lỗi những lúc nóng giận, hèn nhát, ích kỷ… là bởi tại con quỷ đang cố gắng tranh giành tâm trí bạn trong lồng ngực chật chội. Vì bạn đã hiểu ra con quỷ trong bạn chính là một phần đáng quý của bạn. Khu vườn địa đàng trong bạn với hàng trăm sinh vật đang sống, sinh vật nào cũng đáng yêu. Bạn không còn muốn giết chết bất kỳ con nào, bạn đã hiểu sâu về chính mình và đã có thể làm chủ nó.

Chào mi! Hỡi con quỷ trong ta. Bạn vẫy tay mỉm cười. Bạn hiểu rõ nó là tất cả những gì gần gũi quen thuộc nhất đối với tâm hồn mình. Tự bao giờ bạn học cách thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi những con quỷ đáng thương, tuyên thệ với chính mình hãy dùng sự bao dung rộng lượng để ôm trọn nó vào lòng. Những hỗn mang đã đem chúng ta ra khỏi đời sống này, đến bên cạnh những con quỷ để vuốt ve âu yếm, học cách sống dung hòa cùng nó. Bạn thậm chí còn khao khát được nhìn thấy, muốn sờ chạm vào, không còn muốn túm đầu nắm tóc tỏ vẻ đe dọa hung hăng khiến chúng phải khiếp sợ run lẩy bẩy.

Sẽ đến lúc dẫu biết rằng những con quỷ chính là hung thủ gây ra cơn điên cuồng chao đảo, phá vỡ vùng trời bình yên nơi linh hồn bạn đang cư ngụ, dẫu biết rằng những con quỷ trong bạn chỉ đáng làm những con cừu thù lén lút, và bạn thừa sức khám phá ra hang hóc chúng đang cư trú, nhưng thôi, bạn chỉ muốn nhìn vào bọn chúng bằng một nụ cười, xóa tan hận thù bằng yêu thương. Bởi bạn hiểu ra còn có kẻ nào đáng thương hơn trong đời sống này mà không phải là những kẻ thiếu vắng tình thương.

Bạn không còn nuôi ý chí trả thù, không còn cố nói lời sỉ nhục. Bạn hiểu ra con quỷ trong ta cũng đã từng nồng nhiệt hăng say như một đứa trẻ, nói lời ngây thơ và sống hồn nhiên vô tư lự. Nhưng ngọn lửa nào đã đốt lên trong chúng? Điều gì đã biến chúng băng giá lạnh lùng? Chính bọn chúng cũng luôn cảm thấy mình đã đi quá xa tiếng cười con trẻ. Chính chúng cũng đã quá mệt mỏi đến nỗi muốn lăn ra ngủ say. Mỗi một lời than vãn cất lên đều ẩn chứa trong đó một vết thương đã hằn sâu đến tận xương tủy. Chúng cũng muốn yêu quý cuộc đời bằng tất cả sự chân thật nhất, không phải hòa lẫn với đời sống bằng sự giả tạo. Chúng chỉ chán ngán phải nghe đức hạnh rao giảng đạo lý đời sống, chỉ muốn tự thân mình sẽ trở thành người đi rao giảng. Không phải vì chúng muốn làm điều ác, chúng đã quá chán ngán sự lương thiện gian trá.

Hãy học cách kiên nhẫn, cho đến khi những con quỷ trong bạn đến tuổi trưởng thành. Đó là khi thiên thần và cả ác quỷ  hòa quyện trong yêu thương. Chúng không còn gọi nhau bằng những cái tên, không còn sự phân biệt thiện ác, xấu đẹp, không là thiên thần mà cũng chẳng là ác quỷ. Phải chăng đó là khi bạn đã đi đủ xa để chạm vạch biên giới con người?

Chúng ta thuộc dòng giống con người sao? Không, tôi cho rằng chúng ta đang trong quá trình tiến hóa từ những con quỷ.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image:  jplenio 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2