16.7 C
Da Lat
Thứ Năm, 28 Tháng 8, 2025

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 100

[Điểm phim] Nghiền ngẫm lối sống người trẻ qua bộ phim Devil Wears Prada (Yêu nữ hàng hiệu)

0

(876 chữ, 3.5 phút đọc)

Devil Wears Prada (tạm dịch: Yêu nữ hàng hiệu) là một trong 7 bộ phim kinh điển về ngành thời trang mà bất cứ tín đồ mê điện ảnh nào cũng không nên bỏ lỡ. Sự hóa thân tài tình của diễn viên gạo cội người Mỹ Meryl Streep vào vai vị tổng biên tập quyền lực của Tạp chí Thời Trang Runway, những thước phim lung linh về váy vóc, quần áo hàng hiệu,… tất cả tạo nên sự mãn nhãn tuyệt đối cho khán giả. Điều này lập tức đưa Devil Wears Prada nằm chiễm chệ trên danh sách những bộ phim kinh điển của nền điện ảnh Mỹ.

Bộ phim được chuyển thể từ tiêu thuyết cùng tên của tác giả Lauren Weiber. Lấy cảm hứng từ chính công việc trợ lý của mình cho Anna Wintour – Tổng biên tập tạp chí Vouge, bà chắp bút viết nên cuốn tiểu thuyết vô cùng ăn khách Devil wears Prada kể về cô sinh viên mới ra trường Andrea Sachs với ước mơ ấp ủ trở thành nhà báo nhưng duyên may rủi lại nhận được công việc làm trợ lý cho bà Miranda Priestly – tổng biên tập của tạp chí Runway, vị trí mà theo cô được biết là mơ ước của hàng triệu cô gái ngoài kia. Vốn là cô gái xuề xòa, Andrea Sachs không quan tâm đến thời trang và không hiểu tại sao những người như bà Miranda Priestly thích quan tâm những điều tỉ mỉ, nhỏ nhặt mà không ai để ý trên trang phục người mẫu.

28f533c95e18e41877773999861c8829

Bộ phim có rất nhiều chi tiết đắt giá, chứa đựng những lời cảnh tỉnh cho người trẻ hiện đại đầy tham vọng và hoài bão trong khoảng thời gian đầu tiên bước ra khỏi ngưỡng cửa trường lớp và tìm kiếm công việc mơ ước trong xã hội.

Andrea Sachs tốt nghiệp loại ưu từ một trường đại học có tiếng tại Mỹ, với ước mơ làm nhà báo luôn ấp ủ từ ngày còn sinh viên. Đối với cô, vị trí mà hàng triệu cô gái ngoài kia đang ao ước chỉ là một bước đệm để đạt ước mơ của mình. Cô tự nói với bản thân làm trợ lý cho Miranda Priestly trong vòng một năm rồi cô có thể xin việc ở bất cứ toàn soạn nào trong thành phố New York này.

“…Trong khi hàng triệu người ngoài kia đang ao ước được làm việc tại nơi đây, cô lại là người hạ cố đến làm.”

Đó là bài học đầu tiên Andrea Sachs nhận được khi bị Miranda phê bình về thái độ làm việc và cô tìm đến người bạn đầu tiên của mình để than vãn sự bất công tại tòa soạn Runway – nhà thiết kế kỳ cựu Nigel. Andrea ấm ức vì Miranda không bao giờ nói cảm ơn mỗi khi cô làm tốt công việc của mình nhưng khi cô ấy làm sai, bà ấy trở nên thật xấu xa, cô cần một sự công nhận năng lực của mình tại nơi đây.

Đó chính là phác họa chân dung của người trẻ hiện đại, với cái tôi lớn và luôn đặt mình vào trung tâm của vũ trụ. Có bao nhiêu lần chúng ta tự nói với bản thân và bạn bè những lời mà Andrea nói với Nigel? Nhưng đối với những người thành công đi trước, sự thật phũ phàng là bạn không cố gắng, bạn chỉ đang than vãn và không trân trọng công việc của mình.

Tôi tin rằng nếu bạn cần một lời khuyên từ Nigel, ông ta sẽ nói với bạn rằng: “Bỏ việc đi, họ có thể tìm người thế cô trong 5 phút.”

“…Tôi không có sự lựa chọn.”

Gặp rắc rối với các mối quan hệ xung quanh là điều Andrea phải đối mắt xuyên suốt bộ phim vì công việc trợ lý của mình. Lỡ hẹn sinh nhật của bạn trai vì làm trợ lý cho bữa tiệc tối với các tòa soạn của Miranda. Bạn bè nói rằng cô thay đổi quá nhiều sau khi làm việc ở tòa soạn Runway. Ngay cả cha của Andrea cũng không vui khi thấy con gái mình phải làm việc tại văn phòng  lúc 2h sáng và chạy đôn đáo trong bữa ăn tối để tìm vé máy bay cho Miranda trong điều kiện thời tiết xấu, không có chuyến bay về New York. Mọi người đều thiếu sự cảm thông cho công việc của cô.

Đỉnh điểm của sự tuôn trào cảm xúc là khi Miranda Priestly muốn thay thế cô vào vị trí trợ lý cho chuyến công tác Paris Fashion Week mà đáng lẽ ra đã được đo ni đóng giầy cho người trợ lý thứ nhất.

Andrea luôn nói rằng “Tôi không có sự lựa chọn.”

Miranda nói: “Không, cô đã lựa chọn, cô lựa chọn tiến về phía trước.”

Chính là như thế, quyền năng của người trẻ là được phép chọn và thử, vì vậy đừng giới hạn bản thân trong khuôn khổ vô hình nào hết. Bạn luôn có sự lựa chọn, mỗi sự chọn lựa đều do chính bản thân bạn quyết định mà thôi.

Tác giả: Phương Thảo

Ảnh minh họa: time.com

📌 Ủng hộ tác giả Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

 

[Review] Đối Thoại Với Thượng Đế, Neal Donald Walsch

(1023 chữ, 4 phút đọc)

Dẫu biết rằng “thị hiếu” của mỗi bạn đọc là khác nhau nhưng đôi lúc tôi cứ cảm thấy buồn buồn, vì đôi khi có những cuốn sách hay được cả thế giới đón nhận thì đến lúc được xuất bản tại Việt Nam, chẳng mấy bạn đọc biết tới và chỉ sau một thời gian ngắn là bị chìm nghỉm trước hằng hà sa số những đầu sách tiểu thuyết trinh thám, ái tình hay dạy kinh doanh, làm giàu đang bán chạy khác.

Từ góc nhìn của tôi, cuốn Đối thoại với Thượng đế của Neal Donald Walsch cũng đã rơi vào trường hợp như vậy. Thậm chí, Nhã Nam – công ty chịu tránh nhiệm chính trong việc cho ra đời cuốn sách, hình như cũng không mặn mà lắm với việc tiếp thị chút ít cho tác phẩm đầy giá trị này.

Đúng như tựa đề của tác phẩm, đây là cuốn sách ghi lại “một cuộc đối thoại kỳ lạ” giữa tác giả và Thượng Đế từ chính ngòi bút của ông. Việc này nghe có hơi vẻ điên rồ và ảo tưởng, nhưng nếu bạn cũng luôn bị “ám ảnh bởi một số câu hỏi cốt tử về cuộc sống hàng ngày” như tôi thì hãy gác lại những định kiến của mình để thử đọc vài trang đối thoại đầy trí tuệ và dí dỏm trong cuốn sách này.

Không biết với người khác thì thế nào chứ với tôi thì những tri thức mà cuốn sách đem đến đã thoả mãn mọi khát khao được biết của tâm hồn mình. Tôi chưa đọc tác phẩm nào lại nói cho người ta biết rõ ràng và thuyết phục đến thế về nhiều vấn đề vẫn được tranh cãi từ bao đời. Bạn có thể tìm thấy trong cuốn sách này câu trả lời cho các vấn đề như Thượng đế thực sự là ai, Con người thực sự là ai, Địa gục thực sự là gì, mục đích sống thực sự của Con Người là gì, đâu là cốt tủy của mọi tôn giáo, người ta phải làm gì để đời mình “cất cánh”, đam mê có nghĩa là gì, từ bỏ có nghĩa là gì, bản chất của mọi mối quan hệ là gì, cái chết thực sự là gì…

Tìm hiểu về tâm linh và tôn giáo trong 5, 6 năm qua, nhân sinh quan của tôi ảnh hưởng nhiều bởi những quan niệm của nhà Phật. Nhưng đâu đó trong tâm hồn, tôi vẫn thấy giáo lý nhà Phật vẫn chưa thỏa mãn được những băn khoăn, khắc khoải của mình. Trong cảm nhận của tôi, tư tưởng Phật vẫn chưa thể giúp tâm hồn mình vượt thoát được. Chỉ đến khi đọc Đối thoại với Thượng đế, tâm hồn tôi mới được “chắp cánh”, bay lên và bứt phá khỏi mọi tư tưởng giáo điều, nhẹ nhàng chao liệng trên bầu trời tự do của Chân lý. Tôi đã tìm thấy trong nội dung cuốn sách này cốt lõi tư tưởng của đạo Phật, đạo Kitô, đạo Bà La Môn… và tri thức để tâm hồn mình siêu việt lên các tôn giáo ấy.

Khi đọc xong cuốn sách, tôi mới hiểu vì sao cuốn sách lại có thể nằm trong danh sách best-seller của tờ The New York Times suốt 137 tuần. Tôi tự nhủ rằng: “Nếu nói rằng đây là cuốn Kinh Thánh cho Thời Đại Mới (New Age) thì cũng không quá.” Trao đổi với tôi qua email, dịch giả Nguyễn Trung Kỳ – người đã chuyển ngữ trôi chảy tuyệt vời tác phẩm này chia sẻ: “Tôi hy vọng bạn sẽ đọc cuốn sách nhiều lần để cảm nghiệm được sức mạnh giải phóng của nó.” Nghe lời anh, tôi đã kiên nhẫn đọc đi đọc lại nhiều lần từng đoạn một, từng chương một. Càng đọc, tôi càng thấy rằng mình không thể đọc nhanh nếu như không muốn bỏ sót hay cảm nhận vẻ đẹp hết của những viên ngọc tri thức trong tác phẩm.

Tôi nghĩ triết gia Ấn Độ Vivekananda cũng không quá cực đoan khi nói rằng: “Chỉ nên đọc sách của những người đắc đạo, còn bao nhiêu sách vở trên đời đều nhảm nhỉ cả.” Bởi đôi khi chỉ cần thấm nhuần tư tưởng của một cuốn sách minh triết như Đối thoại với Thượng Đế cũng đủ để sáng tỏ cả cuộc đời.

Một số trích dẫn hay

1. Ý Nghĩ Cao Nhất luôn luôn là ý nghĩ chứa đựng niềm vui. Lời Nói Rõ Ràng Nhất là lời nói chứa đựng sự thật. Cảm Giác Lớn Lao Nhất là cảm giác mà ngươi gọi là yêu thương.

2. Mọi người, ai cũng đặc biệt, và mọi giây phút đều là vàng ngọc. Không có người nào và không có lúc nào đặc biệt hơn người khác, lúc khác.

3. Bí mật sâu xa nhất: Đời sống không phải là một tiến trình khám phá, mà là một tiến trình sáng tạo…

4. Chỉ có duy nhất một lý do để làm điều gì đó, một lời khẳng định với vũ trụ: Ngươi Là Ai.

5. Hỏa ngục là đối nghịch với niềm vui. Nó là sự bất toàn. Hỏa ngục là biết được Ngươi Là Ai và Là Gì, nhưng lại không kinh nghiệm được điều đó. Nó là bị kém. Đó là hỏa ngục, và ở đó, không còn gì là lớn hơn cho linh hồn ngươi nữa.

6. Đôi khi con người ta phải phải tiến hành chiến tranh để đưa ra lời khẳng định lớn nhất về người mà họ thực sự là: một con người kinh tởm chiến tranh.

7. Sự sống, tự bản chất của nó, không thể có được bảo đảm. Bằng không, toàn bộ mục đích của nó sẽ bị bóp nghẹt.

8. Yêu thương là thực tại tối hậu. Nó là thực tại tối hậu duy nhất. Là tất cả. Cảm giác yêu thương là kinh nghiệm của ngươi về Thượng đế.

* * *

Tác Giả: Đỗ Hoàng Tùng

📌 Ủng hộ Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Ken Wilber, triết gia hiện đại người Mỹ, và 13 bài học

exclusive

(1094 chữ, 4.5 phút đọc)

Giới thiệu

Ken Wilber (sinh ngày 31 tháng 1, 1949) là một tác giả người Mỹ về lĩnh vực tâm lý học siêu hình và triết lý hợp nguyên do ông sáng tạo ra, một hệ thống triết học gợi ý về sự tổng hợp của tất cả kiến thức và kinh nghiệm, trải nghiệm của loài người.

Ken Wilber là một trong những tư duy độc đáo nhất trong lĩnh vực triết học và tâm linh. Ken Wilber đã sáng tạo ra Lý thuyết Hợp nguyên (Integral Theory), đưa vào đó những khía cạnh khác nhau của hiện thực: cá nhân, tập thể, nội tại, ngoại tại. Ken Wilber cố gắng tổng hợp tất cả các lý thuyết, học thuyết và hệ thống tư duy từ Đông đến Tây, cũng như từ cổ điển đến hiện đại, vào một hệ thống tổng hợp đồng nhất.

Để nói cho “chất”, Ken Wilber không chỉ là một người đưa ra lý thuyết mà còn là người giúp ta nhìn rõ mình trong cái “gương toàn diện” của thế giới tri thức. Ông không ngần ngại nói về Bồ tát đến Einstein, về Thiền đến toán học.

Nếu bạn quan tâm đến việc tạo ra một sự hiểu biết toàn diện trong công việc của mình, Ken Wilber có thể là một nguồn cảm hứng quý báu. Điều quan trọng là biết làm thế nào để áp dụng lý thuyết toàn diện vào thực tế, để có cái nhìn “tổng quan” hơn về mọi thứ, từ tâm linh đến khoa học.

13 bài học từ Ken Wilber

1. “Tiếp cận theo Hợp Nguyên (Integral) cho thấy tất cả góc độ đều chứa đựng sự thật, nhưng một số góc độ thì thật hơn, tiến hóa hơn, phát triển hơn, toàn diện hơn.”

2. Những bậc bí huyền vĩ đại trong quá khứ (từ Phật tới Chúa, từ al-Hallaj tới Lady Tsogyal, từ Huệ Năng tới Hildegard) thật sự đã đi trước thời đại họ, và ngay cả thời đại chúng ta. Nói cách khác, họ không phải là những nhân vật của quá khứ. Họ là những con người của tương lai.

3. Cái gì ở trong bạn đưa bạn đến với một người thầy tâm linh? Không phải là linh hồn bạn, vì linh hồn đó đã được khai sáng rồi, nó không cần phải tìm nữa. Nó chính là cái ngã của bạn đã đưa bạn tới người thầy.

4. Khoa học hiện đại đã không còn từ chối linh hồn. Đó là một biến cố quan trọng. Như Hans Kung nhận xét, câu trả lời thông thường cho câu hỏi “Bạn có tin vào linh hồn không?” thường là “Tất nhiên là không, tôi là một khoa học gia.” nhưng rồi nó sẽ sớm là “Tất nhiên tôi tin có linh hồn, tôi là một khoa học gia.

5. Ý định thật sự từ những bài viết của tôi không phải để nói, bạn phải nghĩ theo cách này. Ý định thật sự là: Đây là một vài khía cạnh quan trọng trong cái vũ trụ hùng vĩ này, bạn có nghĩ là sẽ cân nhắc nó vào thế giới quan của mình chưa?

6. Với người theo Freud tôi nói, bạn đã nhìn vào Phật Giáo chưa? Với Phật tử tôi nói, bạn đọc Freud chưa? Với nhóm tự do tôi nói, Bạn có bao giờ nghĩ một số tư tưởng từ nhóm bảo thủ quan trọng thế nào chưa? Với nhóm bảo thủ tôi nói, Bạn có thể nào nhìn thoáng hơn 1 chút được không? Vân Vân… Chưa bao giờ tôi nói: Freud sai, Phật sai, tự do sai, bảo thủ sai. Cái tôi chỉ gợi ý là chúng đều đúng-nhưng-phiến-diện. Và trên tấm bia mộ của tôi, tôi thành thật hy vọng một ngày nào đó họ sẽ khắc dòng chữ: Ông ta đã đúng-nhưng-phiến-diện.

7. Có phải những bậc bí huyền, thánh nhân đều điên rồ? Họ đều có những phiên bản khác nhau về những chuyện giống nhau. Chuyện về một buổi sáng bỗng giác ngộ, khám phá ra mình là một với vũ trụ, theo kiểu phi thời gian, vĩnh cửu, vô tận… Vâng, có thể họ điên, những “tên ngốc thiêng liêng” này. Có thể là họ đang lèm bèm lảm nhảm. Có thể họ cần một bác sĩ tâm lý biết thông cảm. Vâng, tôi nghĩ nó sẽ có ích lắm.

Nhưng rồi tôi nghĩ, có thể chuỗi tiến hóa thật sự là từ vật chất tới cơ thể tới tâm ý tới tâm hồn tới linh hồn, theo bậc mà vượt qua và tồn đọng, càng sâu hơn, càng ý thức hơn, càng bao trùm hơn. Ở mức cao nhất của tiến hóa, có thể, chỉ có thể, có một cá nhân với ý thức đã chạm vào được vô tận – một sự bao trùm hoàn toàn toàn bộ vũ trụ – một ý thức vũ trụ mà linh hồn của nó đã tỉnh thức trước bản chất thật của nó.

8. Khoa học rõ ràng là một trong những phương cách uyên thâm nhất mà con người đã tạo ra để khám phá sự thật, trong khi tôn giáo vẫn còn là lực lượng lớn nhất cho việc phát sinh ý nghĩa.

9. Nói một cách giản dị, Có Chúa thượng cổ, Chúa pháp thuật, Chúa huyền bí, Chúa tâm lý, và Chúa hợp nguyên. Bạn tin vào Chúa nào?

Chúa thượng cổ biểu lộ sự linh thiêng qua sức mạnh có tính bản năng. Chúa pháp thuật biểu hiện sức mạnh thiêng liêng trong cái tôi con người và khả năng pháp thuật thay đổi thế giới hữu hạn qua cầu cúng và bùa phép. Chúa huyền bí thì không sống trên trái đất mà trên cõi giới thiên đàng, mà vé để vào cửa là họ phải sống thuận theo những giao ước và luật lệ Chúa đưa ra cho họ. Chúa tâm lý là một Chúa lý trí, từ chối những huyền thoại. Và một Chúa hợp nguyên bao trùm tất cả những thứ kể trên.

Chúa nào là quan trọng nhất? Dựa theo cái nhìn hợp nguyên, tất cả, bởi vì mỗi một giai đoạn cao hơn đã được dựng lên và bao gồm luôn những giai đoạn thấp hơn. Vậy thì những giai đoạn thấp hơn mang tính nền tảng, trong khi những giai đoạn cao hơn mang tính tầm cỡ, bỏ một giai đoạn nào, bạn sẽ gặp rắc rối.

10. Tiến hóa không loại trừ chúng ta ra khỏi vũ trụ, nó liên kết chúng ta với toàn thể vũ trụ: phương thức giống như nó tạo ra những con chim từ cát bụi, họa thơ từ sỏi đá, bản ngã từ giấy tờ, và thánh hiền từ bản ngã.

11. Trí tuệ xã hội không phải sự hiểu biết làm sao để sống thuận theo tự nhiên; mà là sự hiểu biết làm sao để con người đồng ý, thống nhất một đường lối sống thuận theo tự nhiên.

12. Bạn chiến thắng cái chết không phải bằng cách sống mãi mãi, nhưng bằng cách sống phi thời gian, bằng cách để tâm vào Hiện Tại. Bạn chiến thắng cái chết bằng cách nhận ra tâm thức hiện tại của chính bạn không bao giờ đi vào dòng thời gian ngay từ đầu, và vì thế bất sinh, bất diệt.

13. Eros là tình yêu của bậc thấp với lên bậc cao (thăng). Agape là tình yêu của bậc cao với xuống bậc dưới (giáng). Trong sự phát triển cá nhân, một người thăng theo Eros (phát triển đặc tính cao rộng hơn), và thống nhất với Agape (với xuống quan tâm bao trùm những cá thể bậc dưới), quá trình phát triển được cân bằng và rồi vượt qua và tồn đọng.

Biên dịch: Nguyễn Hoàng Huy

Tự do và nổi loạn có giống nhau?

0

(1034 chữ, 4 phút đọc)

N’Golo Kanté luôn lẫn vào đám đông. Trong nhiều bức ảnh chụp cảnh ăn mừng chiến thắng cùng đồng đội, chàng tiền vệ lừng danh thế giới dường như mất hút. Nếu không phải do đã nổi tiếng từ trước, thì khó ai có thể nhận ra nhà đương kim vô địch World Cup 2018. Bởi trong một số khuôn hình, chỉ có một phần khuôn mặt của cậu lộ ra trước ống kính, do bị… các đồng đội che khuất.

Kante ít nói, đi xe hơi ít tiền, không tiệc tùng, mộ đạo (cậu là một người Hồi giáo), hiền lành và có vẻ khép kín. Ngoài bóng đá ra, chỉ có một thứ duy nhất nổi bật ở cậu, đó là nụ cười. Một nụ cười hồn nhiên tươi rói.

Là chủ nhân của hai chức vô địch Ngoại hạng Anh và một cúp vàng World Cup, lẽ ra Kante có thể sống tự do hơn. Với thu nhập của cậu, những cuộc vui mỗi tối trong bar, tiệc tùng, siêu xe, phụ nữ đẹp… chẳng phải vấn đề gì to tát. Một đời sống tự do về vật chất, thoải mái về tinh thần luôn vẫy gọi những người giàu như cậu. Nhưng không hiểu vì sao đến giờ cậu vẫn đều đặn trong nhịp điệu chậm rãi của mình?

Kante dường như thích lẫn vào đám đông. Cậu không muốn nổi bật. Cậu ngượng nghịu khi được người ta tôn vinh. Vị trí trung tâm của cuộc vui để dành cho ai khác, không phải cậu. Có vẻ cậu muốn trở nên vô hình, không ham cạnh tranh (trừ trên sân bóng) và thích được biến mất mỗi khi có thể.

Đến một lúc nào đó, trong hào quang của sự nổi tiếng, không chừng Kanté sẽ tháo tung những ràng buộc của tôn giáo, kỷ luật, thói quen sống – những sợi xích mà hầu như ai cũng chán ngắt – để hòa vào cuộc sống vô tư, phóng khoáng, không ràng buộc… nhờ thu nhập cao? Có thể đến một lúc nào đó cậu ta sẽ như vậy, nhưng nếu có quyền được hy vọng, tôi hy vọng điều đó không xảy ra.

Quan niệm về sự tự do rất rộng. Có một dạng tự do khá phổ biến, biểu hiện qua hình tượng các ngôi sao giải trí: Họ được mặc những trang phục tuyệt đẹp mà chúng ta khao khát, thoát ly cảnh bị quên lãng và trở thành tâm điểm của đám đông, bung ra khỏi sự tẻ nhạt thường ngày để hòa mình vào những vũ điệu sôi động, như các thần tượng K-pop chẳng hạn. Vì thế, nhiều người trẻ tuổi rất hâm mộ họ và thường mơ những điều tương tự…

Tuy thế, một số nhân vật trong cuộc có thể lại suy nghĩ khác. Khi bạn không được sống và yêu theo ý riêng, khi bạn trở thành công cụ kiếm tiền của những ông trùm giải trí, hay nạn nhân của sự ích kỷ từ “fan hâm mộ”, bạn có thể rơi vào trầm cảm hoặc tự sát – nếu không đủ rắn rỏi.

Một kiểu tự do khác, đó là thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình và xã hội. Khi đứa trẻ lớn lên, chúng phá bỏ các khuôn khổ cũ kỹ do cha mẹ đặt ra, trở nên nổi loạn để chứng tỏ cá tính riêng biệt, duy nhất! Chúng xăm trổ, bấm đủ các loại khuyên tai, khuyên mũi, khoác những bộ đồ cực kỳ nổi bật, bước đi một cách ngông ngạo, vừa chửi thề vừa phì phèo khói thuốc. Chúng muốn được tự do là chính mình.

Nhưng nếu đặt những đứa trẻ ấy bên cạnh nhau, bạn sẽ thấy chúng giống hệt nhau. Chúng đặc biệt theo một cách không hề đặc biệt. Chúng tưởng chúng là duy nhất – thực tình thì chúng chỉ là bản sao của những người tương tự chúng và là sản phẩm đúc chung từ cái khuôn có tên “nổi loạn.” Giả sử 10 đứa trẻ như vậy phải lên Thiên Đàng cùng một lúc, có lẽ chính Thượng Đế cũng không phân biệt nổi đứa nào ra đứa nào. Chúng đã nhảy từ sự mất tự do này sang sự mất tự do khác.

Nổi loạn và tự do không tương đồng. Nổi loạn là một dạng tự cầm tù khó nhận ra vì nhà tù ấy không có chấn song. Sẽ có lúc giữa cuộc vui, vài đứa giật mình tự hỏi: Vòng xoáy này là gì, rồi mai ta còn bị cuốn về đâu? Cố tìm tự do, nhưng ta lại thấy toàn là vô định. Trong số chúng, một vài đứa chỉ bắt đầu cảm thấy sự trói buộc khi lỡ dính vào ma túy mà không tài nào thoát ra được.

Tự do không phụ thuộc vào việc ta là ai và làm gì. Tự do nằm trong tinh thần. Một người sống trong tù cảm thấy thoải mái và vừa lòng với hiện tại, sẽ tự do hơn một cậu quý tử nhà giàu ngày đêm vung tiền để thỏa mãn những thú vui vô vọng của bản thân.

Hãy trở lại cùng Kanté. Nếu Kanté không thoải mái với cuộc sống hiện tại, cậu chàng sẽ có cảm tưởng là mình đang bị giam hãm. Nhưng nếu cậu hài lòng với lối sống riêng, cậu đang có chút ít tự do. Và nếu cậu nhận thức được rằng tất cả các mối quan hệ ràng buộc trong đời sống chỉ là bề nổi của tảng băng trôi – phần chìm trông như thế nào lại do chính thái độ tinh thần của cậu quyết định, thì có lẽ cậu đang bước trên con đường tìm tới tự do hoàn toàn.

Ở chiều ngược lại, nếu chúng ta bị thúc ép phải đi tìm một thứ tự do nào khác trong tương lai mà chúng ta chưa có, chúng ta sẽ bị chính cái “khái niệm tự do” ấy trói buộc và trở thành nô lệ của nó.

Tự do thật sự luôn có sẵn trong trái tim mỗi người, chỉ cần quay lại và nhìn thấy.

Tác giả: Quang Vũ

Ảnh minh họa: Free-Photos

📌 Ủng hộ Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Sống mà không điên thì cuộc đời còn gì thú vị?

4

(791 chữ, 3 phút đọc)

Sống mà không điên, làm sao ta đủ gan góc băng vượt trùng khơi dữ dội để tìm kiếm mình trong dông bão như một nhà thám hiểm cố tìm kiếm những vùng đất mới.

Sống mà không điên, làm sao ta dám đưa tay ra sờ soạng vào đêm tối bằng những tiên đoán, điều mà bất cứ kẻ tỉnh táo nào cũng e dè sợ sệt.

Sống mà không điên, làm sao ta đủ khả năng bước đi trong cô độc. Xưa nay chỉ có người bình thường mới yếu đuối bám víu nhau để nượng tựa, họ lập làng lập ấp, sống phụ thuộc nhau bằng quan hệ bầy đàn. Họ không tin rằng con người có thể tồn tại trên bước chân kẻ cô độc. Nên phải chăng người độc lập tự chủ nhất bao giờ cũng phải giữ trong mình một chút điên rồ?

Sống mà không điên, làm sao bước đi giữa mặt trời đã lịm tắt, ánh hoàng hôn nhợt nhạt mà không tránh khỏi sự ưu sầu. Người điên luôn biết cách vui chơi thỏa thích với sự ưu sầu.

Sống mà không điên, làm sao giữ vững tâm hồn mình không bị cuốn hút vào khúc nhạc ngọt ngào dẫn ta đến con suối mát với làn nước xoáy phỉnh lừa ta. Điều ngọt ngào nhất bao giờ cũng chứa ẩn những cám dỗ. Chính vì thế mà ta đã trông thấy một xã hội bị cuốn theo danh vọng vật chất. Nhưng người điên đã mạnh dạn đứng lên tuyên bố rằng họ khinh bỉ những thứ tầm thường đó. Họ điên nên họ khinh bỉ những điều ngọt ngào hay vì họ khinh bỉ nên họ bỗng nhiên biến thành người điên?

Sống mà không điên, làm sao ta dám nghênh chiến với ác quỷ đang cư ngụ trong chính linh hồn mỗi chúng ta – những con quỷ với tiếng vọng rót vào bên tai chúng ta mỗi ngày. Chúng đang lôi kéo ta về với vùng đất nơi đầy rẫy những con người bình thường. Bởi chỉ có trên vùng đất đó, chúng mới hả hê điều khiển ta với những thú vui trụy lạc, những ham muốn của con người. Chỉ có ở đó quỷ dữ mới có đất sinh sống, mới có không khí để thở?

Sống mà không điên, làm sao ta dám nhặt đá quăng ném vào đầu những con người bình thường để thách đố với sự nhu nhược hèn yếu trong họ. Bởi bản năng của một người bình thường sẽ luôn giới hạn tất cả sức mạnh trong họ. Con người sẽ không bao giờ dám vượt bỏ con người. Họ an phận và biết tự lượng sức mình. Họ thừa thông minh để nhận ra chống lại đồng loại, họ sẽ ngay lập tức biến thành một người điên?

Con người là con vật can đảm nhất sao? Không, con điên đã tự bao giờ dành lấy ngôi vị quán quân đó để chiến thắng tất cả mọi con vật. Trong khi con người vẫn còn đang mắc kẹt trong mọi thống khổ điêu linh thì kẻ điên đã giết chết tất cả những sợ hãi nhấn chìm nó xuống hố sâu.

Con người nhìn con điên bằng ánh mắt thương hại, nhưng cũng trong ánh mắt ấy con điên đã cao đại và rộng lượng. Con điên đã vượt bỏ hết tất cả về con người, thoát khỏi con người, nhảy vọt những bước dài rồi bỏ xa con người. Vậy thì giữa con người và con điên, ai mới là kẻ thông thái hơn? Ai đủ tỉnh trí hơn ai?

Con người bác bỏ con điên, nhưng con điên lại chỉ luôn xem con người là một phần trong tất cả thú vui. Con người luôn quên rằng những người đã cõng họ lên đỉnh cao lại luôn là những người điên.

Đối với con người, lời của kẻ điên chẳng khác nào lời của một con chó đang tru rống. Người điên đứng bơ vơ giữa màn đêm hoang liêu và cảm thấy lạc loài ư?

Chỉ có những người điên mới là người cười như chưa bao giờ từng được cười trong cõi đời này? Chỉ có những người điên mới là người không bao giờ cam chịu để sống và cũng không bao giờ cam chịu chết? Chỉ có những người điên mới là người phóng giật biển cả để lao nhanh đến tự do?

Và phải chăng chỉ có người điên mới là người trông thấy nụ tầm xuân đầu tiên nở rộ khi mùa xuân đến. Nhưng nếu bạn không có một chút điên rồ nào, bạn làm sao hiểu được lời tôi nói?

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: Alexas_Fotos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Một Việt Nam đang tự sát trong im lặng

(1279 chữ, 5 phút đọc)

Việt Nam là một dân tộc đang tự sát trong im lặng theo nghĩa đen. Vì sao?

Đã từ lâu chính phủ từ chối đưa ra những số liệu thống kê chính thức về số lượng người Việt Nam tự sát mỗi năm. Việc chính phủ che giấu thông tin về số lượng người tự sát Ying-Yeh Chen, Kevin Chien-Chang Wu, Saman Yousuf và and Paul S. F. Yip vạch ra trong nghiên cứu có tựa đề “Suicide in Asia Opportunities and Challenges”: đơn giản là số liệu hoàn toàn….không được công bố.

1

Đây đó, những số liệu được hé mở về tình trạng tự sát của người Việt Nam được giới chuyên môn đưa ra, nhưng dĩ nhiên, chúng không hề nhận được sự chú ý, phản biện và nghiên cứu kĩ lưỡng. Vào những năm 1990, người ta đã chú ý đặc biệt về tình trạng tự sát của cựu binh từng tham chiến ở Việt Nam (Vietnam veterans) sau chiến tranh. Con số tự sát hết sức giật mình. Theo đó khoảng 50 ngàn cựu binh từng tham chiến ở Việt Nam (Vietnam veterans) đã tự sát sau khi chiến tranh kết thúc.

2

Trong năm 2016, giới chuyên môn vô tình tiết lộ, có khoảng 36 ngàn đến 40 ngàn người Việt Nam tự sát mỗi năm. Đây chắc chắn là một số liệu sẽ bị chính phủ phủ nhận và cố gắng biện hộ chỉ là số liệu của một nhà nghiên cứu Việt Nam đưa ra. Song để chứng minh họ sai, đơn giản nhất là chính phủ cần minh bạch hơn trong việc thừa nhận Tự sát là một vấn nạn trong xã hội hiện nay.

3
http://vietnamnet.vn/vn/suc-khoe/suc-khoe-24h/mo-i-nam-40-000-nguo-i-vn-tu-tu-do-tra-m-ca-m-300886.html

Một năm sau đó, vào năm 2017, con số 36 ngàn – 40 ngàn này lại được lặp lại trong bài viết khác. Nguyên nhân của việc hàng chục ngàn người Việt Nam tự sát được QUY GIẢN HOÁ là do các nguyên nhân về tâm thần, trầm cảm. Đây là một lí giải hết sức bề nổi. Kiểu: người ta tự sát là vì….độc tính của thuốc trừ sâu. Cần có những nghiên cứu kĩ hơn về tình trạng tự sát của người Việt Nam.

4
http://vietnamnet.vn/vn/suc-khoe/cac-loai-benh/gan-40000-nguoi-viet-tu-tu-moi-nam-do-tram-cam-365158.html

Trong một quan sát khác, tình trạng tự tử của người Việt Nam rất nghiêm trọng. Tự sát là nguyên nhân thứ 2, đứng sau Tai nạn giao thông đang lấy đi sinh mạng của người Việt Nam. ĐẾN BAO GIỜ chính phủ và xã hội Việt Nam phải thừa nhận đây là một đại dịch thực sự và chú tâm tìm hiểu, phân tích các nguyên nhân ẩn sau đó?

5

Để hình dung về độ khủng khiếp của những con số 36 ngàn – 40 ngàn người tự sát mỗi năm. Chúng ta cần so sánh với Nhật Bản, một quốc gia nổi tiếng về tự sát, số lượng người tự sát mỗi năm ngày càng giảm, thậm chí dưới 30 ngàn trường hợp trong nhiều năm gần đây. Chúng ta chưa vượt Nhật Bản về GDP, nhưng chúng ta đã vượt xa Nhật Bản về năng lực tự sát của công dân.

6

Năm 2017, số lượng người tự sát ở Nhật Bản chỉ còn dưới 15 ngàn người. Trong đó 14693 nam giới tự sát. Số liệu này cho thấy, tự sát ở Việt Nam hiện nay cao gấp đôi so với tự sát ở Nhật Bản cùng thời kì. Tự sát ở Việt Nam không phải là một vấn đề bình thường nữa. Nó là một đại dịch.

7

Trong khi đó, do việc o bế về dữ liệu và thông tin, hoàn toàn vắng bóng những nghiên cứu về tình trạng tự sát của người Việt Nam. Theo thống kê của nhóm tác giả Ying-Yeh Chen, gần như không có những nghiên cứu đầy đủ về vấn đề này. Tất cả là con số 0, 0, 0, 0 tròn trĩnh. Số liệu này là của năm 2012. Hiện giờ lẻ tẻ có một số nghiên cứu ở quy mô nhỏ về tình trạng tự sát trong giới trẻ ở Việt Nam.

8

Những con số về việc TỰ SÁT rất dễ bị xã hội và chính quyền bỏ qua hoặc bị đồng nhất với những cái chết với nguyên nhân khác như TAI NẠN. Việc thừa nhận một thành viên trong gia đình tự sát KHÓ hơn rất nhiều so với việc thừa nhận thành viên đó chết do TAI NẠN thông thường. Điều này đúng với trường hợp của nhiều xã hội khác nhau. Mọi người thường có tâm lý: “người chết thì cũng đã chết rồi”. Chết vì tai nạn thì không ai quan tâm. Chết vì tự sát thì cả gia đình, người thân, trường học, cơ quan đoàn thể liên đới.

Xu hướng tự sát chung của các nước Đông Á – Nam Á là nam giới tự sát nhiều hơn rất nhiều so với nữ giới. Tỉ lệ Nam giới ở Việt Nam tự sát nhiều gấp 3 lần so với tỉ lệ Nữ giới tự sát. Số liệu dựa trên thống kê không đầy đủ của WHO (Tổ chức Sức khoẻ thế giới).

10

Tự sát học đường ở Việt Nam được nhắc đến rất nhiều trên báo chí và các phương tiện truyền thông. Trong một nghiên cứu phỏng vấn sâu trường hợp học sinh cấp 2 ở Cần Thơ, 26,3% học sinh cấp hai được hỏi khẳng định các em có ý định tự sát. Tự sát học đường dĩ nhiên không chỉ là vấn đề của giáo dục. Hệ thống giáo dục là phản ánh nhu cầu và năng lực của một xã hội. Nó là con dao. Còn người cầm dao là xã hội và đặc biệt gia đình. Rất khó chấp nhận một thực tế là bố mẹ Việt Nam đang cầm dao giết con mình.

11

Trong một nghiên cứu về y học xuất bản 2017, những nhà nghiên cứu chỉ ra một xu hướng tự sát nổi trội ở các quốc gia Đông Á/Đông Nam Á như Hàn Quốc và Việt Nam, đó là tình trạng tự sát ở người già. Những người trẻ và những người già trong xã hội Á Đông đang là nhóm chịu nhiều áp lực trong xã hội nhất, dẫn đến việc họ phải tìm đến cái chết. Các post dưới đây chúng tôi sẽ nói kĩ hơn về các nhóm này.

12

Tình trạng tự sát học đường xảy ra liên tiếp, nguyên nhân được báo chí truyền thông nêu ra đó là do nhà trường và cha mẹ “buông lỏng” quản lý học sinh. Chúng tôi khẳng định nguyên nhân này rất không ổn. Trong hầu hết trường hợp học sinh tự tử, chúng tôi nhìn thấy nguyên nhân là do nhà trường và cha mẹ “thắt chặt” quản lý con em một cách thái quá.

13

Đơn cử một trường hợp cho thấy nguyên nhân “gia đình và nhà trường BUÔNG LỎNG quản lý con cái” là một nguyên nhân không hợp lý. Trái lại, việc cha mẹ và nhà trường KHÔNG CHỊU “BUÔNG LỎNG” quản lý con cái mới là nguyên nhân chính dẫn đến việc các em nghĩ đến tự sát. Đọc giữa các dòng thông tin về việc em học sinh ở Hà Tĩnh tự sát tháng 1 năm 2018 vừa rồi, người ta nhận thấy sức ép quản lý khủng khiếp của gia đình đối với một học sinh lớp 7. Bố mẹ em cho rằng mình chỉ “nhắc nhở” em về việc học tập. Em “vui vẻ” đến trường.

14

Tác giả: Nguyễn Phúc Anh
Edit: Triết Học Đường Phố

Featured image: Wiki Commons

Tham khảo


📌 Ủng hộ Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Có nhất thiết phải sống nhất quán?

0

(1415 chữ, 5.5 phút đọc)

“Làm thế nào tôi có thể hành động nhất quán để giảm thiểu cái ác trên thế giới?”

Mình đọc được một câu hỏi như vậy của tiến sĩ Jordan Peterson – một nhà tâm lý học đương đại, được đăng trên Triết Học Đường Phố. Theo bài viết đó thì việc tìm ra đáp án cho câu hỏi này sẽ đem lại tác dụng tốt cho cuộc sống của đọc giả.

Tuy nhiên theo mình thì câu hỏi đó hơi lủng củng và khó hiểu. Dường như “hành động nhất quán” và “giảm thiểu cái ác” không liên quan mấy đến nhau. Không những vậy, một người cố gắng “hành động nhất quán” có thể đang phạm tội ác với chính mình.

Hầu như ai ai cũng cố gắng hành động nhất quán. Tại sao vậy? Bởi chúng ta sợ bị cười chê. Khi bạn nói câu trước mâu thuẫn với câu sau, bạn bị người khác bắt bẻ. Khi quan điểm hôm nay của bạn khác với hôm qua, bạn có thể bị chế nhạo. Khi hành động của bạn ngày mai khác với hôm nay, người ta mô tả bạn một cách tàn nhẫn: “Hắn đang đốt cháy những cái mà mình đã tôn thờ, và tôn thờ những cái mà mình đã đốt cháy! Hắn, kẻ hai mặt!”

Chúng ta nào có muốn bị coi thường. Hình ảnh bản thân của chúng ta vô cùng quan trọng. Một số người trong chúng ta thậm chí tự sát khi vô tình bị vài người xung quanh coi là ‘kẻ ngốc’. Chẳng hạn, chỉ vì bị bạn bè chê cười về chiếc váy lạ lẫm lần đầu diện tới trường, em nữ sinh nọ có thể viết thư tuyệt mệnh rồi nhảy sông tự tử…

Bất cứ điều gì không thay đổi, điều đó không thật sự sống. Tất cả những gì đang sống đều biến đổi không thôi, tựa như quá trình nở rộ của một đóa hồng. Ban đầu, chưa có hoa – chỉ nhú lên một chồi non. Rồi cái chồi non ấy bừng nở thành đóa hoa rực rỡ. Nhưng, vài ngày sau, bông hoa héo rũ và chết. Những cánh hoa chết héo ấy cũng chẳng giống bông hoa rực rỡ trước đó một chút nào. Liệu có ai gọi đóa hồng đó là “hai mặt”, “không nhất quán” hay không? Không! Đó đơn giản là sự phát triển.

Khi bạn cố gắng sống nhất quán, bạn đã chết hẳn. Sự phát triển bên trong bạn bị ngưng chặn, ứ đọng. Bạn dần biến mình thành một cái xác cứng ngắc. một hình mẫu bất di bất dịch.

Rất nhiều khi chúng ta đã tin rằng quan niệm của mình hoàn toàn đúng. Chúng ta đứng lên chống lại cả thế giới để bảo vệ niềm tin ấy. Thế rồi, một ngày, với những thông tin mới thu thập được, ta nhận ra có gì đó sai sai. Điều ta đấu tranh cho bằng tất cả sinh lực giờ đây lại không đúng nữa.

Chuyện kể, cuối thế kỷ 20 xuất hiện một giáo phái nọ. Họ tin rằng năm 2.000 sẽ là năm chấm dứt sự tồn tại của nhân loại. Thế giới sẽ diệt vong vào thời khắc đầu tiên của Thiên niên kỷ mới. Vào lúc ấy, Chúa Trời vén mây hiện ra, phán xử tất cả những kẻ đã từng sinh ra trên cõi đời này. Không hiểu vì lý do gì nhưng họ tin chắc rằng sau khi phán xử, Chúa sẽ ban thưởng rồi đưa họ lên Thiên Đàng, nơi đó họ có thể thoát ly hết đau khổ trần gian. Họ bỏ gia đình, công việc, bất chấp mọi lời khuyên can, chụp lên mình những chiếc áo choàng kỳ quặc và cùng nhau đợi giây phút tận thế được nhắc tới trong sách Khải Huyền.

Đồng hồ chậm rãi điểm, tích tắc, tích tắc… Sắp đến 0 giờ. Họ nắm tay nhau: Thế giới sắp diệt vong rồi! Và họ hân hoan vô cùng. Rồi, đồng hồ điểm 0 giờ. Họ nín thở. Chuông đồng hồ vang lên. Một khoảng yên lặng rất dài. Không có gì xảy ra cả. Một con chim đói ăn bay ngang nền trời đêm, buông vào sự tịch lặng ấy hai tiếng kêu quang quác và mất hút, biến toàn bộ sự chờ đợi của nhóm người cuồng tín thành bức tranh biếm họa tức cười. Hoang mang cực độ, họ cố tiếp tục ngóng trông. Khi chuông đồng hổ điểm 1 giờ sáng, những tiếng xì xào bắt râm ran: “Phải chăng chúng ta đã bị lừa?” Họ nghĩ?

Vị giáo chủ nắm được tình hình. Ông ta ngay lập tức đứng bật dậy, quay mặt về phía các tín đồ, dang rộng hai tay, hô lớn: “Chúa vừa nhắn với tôi, qua tiếng chim kêu ban nãy, rằng ngài gần thời gian để chuẩn bị cho một sự phán xử mãnh liệt và hà khắc hơn. Hãy chờ đợi. Chúa sẽ ban phước lành cho những ai đã đến đây ngày hôm nay bằng một vé miễn phí lên Thiên Đường sau khi chết.”

Như người chết đuối vớ được cọc, tất cả những môn đồ đều đồng thanh hưởng ứng lời sấm truyền của vị giáo chủ. Ngày hôm sau, khi được giới truyền thông phỏng vấn, họ cùng nhau khẳng định chắc nịch rằng: “Chúa sẽ đến vào một ngày khác, và chúng tôi vẫn đúng!” Vì sao vậy? Họ lỡ làm điều ngu ngốc, và họ sợ bị chê cười, nên họ cần nhất quán. Sự nhất quán cứu vãn thể diện của họ, tất nhiên, trong mắt họ mà thôi. Ngay từ đầu, người ta đã cười họ rồi.

Vấn đề là sau đó, họ còn phục vụ giáo phái một cách nhiệt tình hơn hẳn trước khi bị “hớ”. Họ chẳng muốn tin rằng họ đã sai, nên quyết định tiếp tục sống trong ngốc nghếch.

Có biết bao nhiêu người cá tính, biết bao nhà cách mạng, hiền nhân, ngôi sao giải trí… vướng vào cái bẫy này. Bạn xăm tên một ai đó lên cơ thể để thể hiện tình yêu, nhưng rồi bất ngờ người ấy bỏ đi, bạn chỉ biết nói rằng mình “không có gì hối hận vì đã yêu hết mình.” Thực tế, bạn nên hối hận chút ít. Điều bạn cần rút ra là lần sau, đừng xăm bất cứ tên ai lên cơ thể. Cuộc sống quá mênh mông để khẳng định chắc chắn về tính cách của bất cứ ai và sự chính xác của bất cứ điều gì. Các nhà cách mạng còn khốn khổ hơn: Đôi lúc họ cống hiến cả đời cho một sự nghiệp mà chỉ khi về già, họ mới nhận ra nó hoàn toàn rỗng tuếch, nhưng quá xấu hổ để thừa nhận nó. Thậm chí, họ tiếp tục giết người để uốn nắn xã hội cho vừa với khuôn mẫu lỗi mốt của mình, bởi không dám đối diện thực tế. Trên bề mặt lý trí, họ sẽ tiếp tục cho rằng mình đúng, nhưng thẳm sâu bên trong, họ thấy có cái gì đó không ổn, và chúng chỉ hiện ra về đêm, trong những giấc mơ não nùng của họ.

Chúng ta không cần cố gắng sống nhất quán, nhưng nếu có thể, hãy sống trung thực với bản thân mình. Nếu sai, hãy sửa – không phải vì sự đàm tiếu của người đời, mà vì sự trưởng thành tự thân. Nếu họ cười, hãy cứ để họ cười. Sự phát triển và trưởng thành của chúng ta quan trọng hơn những tiếng cười đó. Không cần nổi nóng, dù với người khác hay với chính mình. Nếu đã từng ngốc nghếch, hãy học ra bài học để tránh nỗi lầm lần sau. Nếu làm gì đó không đúng đắn, hãy xin lỗi và cho mình cơ hội làm mới lại. Đôi khi có những sai lầm mà ta không thể sửa chữa được – thì đơn giản vui lòng chấp nhận nó trong sự trưởng thành và mạnh mẽ.

Cố gắng hành động nhất quán sẽ biến chúng ta từ một kẻ ngốc thành một kẻ siêu ngốc. Nhưng sự trung thực với bản thân lại mang cho chúng ta cơ hội để sửa chữa và học hỏi. Ta có thể giả vờ với xã hội, đôi khi; chỉ cần đừng giả vờ với chính mình.

Tác giả: Quang Vũ

Ảnh minh họa: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Tâm sự của người muốn từ bỏ thuốc lá

4

(1304 chữ, 5.5 phút đọc)

Tôi từng ngông cuồng sử dụng từ ngữ thô lỗ để viết ra một bài viết giải thích nguyên do tại sao tôi lại thích hút thuốc lá. Đó là bởi nếu không còn muốn đốt thuốc, tôi nghĩ mình sẽ trở thành một kẻ muốn đốt toàn thể thế giới này.

Hôm trước có cậu bạn mời tôi điếu thuốc, tôi từ chối mỉm cười lắc đầu. Hiểu được ý nên cậu ta tiếp lời: “Lại bỏ thuốc à.” Thoáng đầu tôi hơi ngần ngại vì biết cậu ý mỉa mai đùa cợt. Nhưng khi lấy lại được bình tĩnh, tôi đáp: “Bỏ được điếu nào hay điếu đó thôi.”

Hiện tại tôi đã không còn muốn đốt thuốc, nhưng tôi cũng không còn muốn đốt thế giới. Tất nhiên đây không phải là lần đầu tôi tự làm khó khi trói chặt tôi vào trong những kỉ cương phép tắc nghiêm ngặt do chính tôi tạo ra. Bao nhiêu lần tôi bày vẽ từ bỏ thuốc lá là bấy nhiêu lần thất bại. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn trân trọng ý chí của tôi vì chưa bao giờ bỏ cuộc.

Có một lý do mạnh mẽ đang thúc đẩy trong tôi đầy khao khát đối với ý chí muốn từ bỏ thuốc lá. Trước khi dấn thân vào con đường sương khói của những điếu thuốc, tôi thừa hiểu nó chính là kẻ thù đang mai danh ẩn tính trong bóng đêm. Chúng rình rập và nhìn ngó tôi mỗi ngày mỗi giờ. Sẽ đến lúc chúng xuất hiện trong những thời điểm thích hợp để đánh vào phổi tôi những đón chí mạng. Chúng cưỡng bách và uy hiếp cả những người bên cạnh tôi.

Những người kể lể với tôi về những tác hại nguy khốn của nó, họ tưởng tôi khờ khạo đến nỗi không biết hút thuốc lá có thể gây ra cái chết từ từ sao? Họ rất khôn ngoan và thông minh, họ biết tất cả tác hại từ thuốc lá nhưng chỉ trừ một điều họ không biết. Đó là việc từ bỏ thuốc lá là một điều rất khó khăn. Hoặc họ cũng biết, nhưng họ chưa bao giờ đặt vị trí mình vào người khác để nhìn nhận vấn đề.

Với những người cùng có một niềm đam mê thuốc lá, con đường đến với làn hương khói quê hương là rất dễ dàng, nhưng để từ bỏ nó ra đi thì lại rất gian nan. Thường thì người ta bắt đầu hút thuốc vào giai đoạn trưởng thành. Sự tò mò và ý chí muốn thể hiện bản thân ở vào độ tuổi này đã luôn mời mọc những đứa trẻ vị thành niên tự hào trong hành động châm lửa, hít một hơi thật sâu và nhả từng làn khói trắng. Tôi nhớ bất kỳ thằng con trai nào hút thuốc hồi ấy đối với tôi đều trông cực ngầu. Ở cái tuổi đua đòi thích thể hiện, thuốc lá là chiếc áo choàng hợp mốt thời trang nhất mà bất cứ đứa nào đủ can đảm có thể mặc nó lên mình. Mặc lên rồi chúng muốn mặc mãi dù đã muốn cởi ra.

Cũng có người tìm đến thuốc lá trong cơn say nửa mê nửa tỉnh trước cuộc đời. Họ quá cô đơn và chỉ còn biết bầu bạn với thuốc lá. Bao nhiêu anh em ngồi đốt thuốc chém gió mà tôi từng trò chuyện, ai cũng giãi bày tâm sự dường như y hệt nhau. Ai đó rồi cũng từ từ bỏ ta mà đi, chỉ có mấy điếu thuốc này là chung thủy. Lúc ta vui, ta buồn, ta đau khổ hay tuyệt vọng, lúc khó khăn khốn khó, bao giờ cũng là thuốc lá một lòng chung thủy sắt son. Đời ta cô đơn đến thế mà thiếu nó nữa thì còn biết bầu bạn với ai.

Tất nhiên là khi ta yêu quý điều gì đó, ta vẫn luôn biết cách để bảo vệ chúng. Hướng nó đến cái lý tưởng nhất trong trái tim ta, mặc dù ta biết đó chỉ là ý chí của riêng ta. Và chính vì nó là ý chí nên khi ý chí ta thay đổi thì mọi lý tưởng cũng vẫn sẽ phải thay đổi.

Tất cả ý chí trong tôi đều đang quy phục và gấp lại theo tôi. Tôi muốn từ bỏ thuốc lá và chính những điếu thuốc giờ đây cũng đang trở nên dịu dàng hơn với tôi. Nó không có ý cưỡng bách và thôi thúc tôi tìm đến nó nữa. Nhất là trong màn đêm tịch liêu của những giây phút bầu bạn cùng ánh trăng, linh hồn tôi đã không còn nghe thấy tiếng chào mời, không một âm thanh nào thuốc lá cất tiếng gọi tên tôi. Tôi thực muốn quỳ gối sùng bái tạ ơn nó nghìn lần.

Nhưng bạn tôi, đứa đang cố nhiên phán đoán những giá trị trong việc thuốc lá lại nhìn tôi với ánh mắt mỉa mai và dè chừng về tính kiên trì của tôi. Cậu ta chỉ đang phóng chiếu ý chí của cậu vào tôi. Cậu nghĩ rằng tôi chỉ đang làm trò lố bịch, làm trò cười cho thiên hạ. Cậu ta với ý chí gắn kết lâu dài với những điếu thuốc không tin rằng tôi có thể vượt qua được. Những điếu thuốc sẽ lôi cuốn tôi, hơi khói quê nhà sẽ kéo dẫn tôi về những góc nhỏ thân quen. Ý chí kiên cường của tôi rồi sẽ vỡ tan. Tôi sẽ không bao giờ từ bỏ được thuốc lá, vậy nên hãy dẹp ngay đi cái ý định xa xỉ đó và thôi làm trò bộ tịch. Cậu ta chỉ muốn tôi nhận lấy điếu thuốc từ cậu, hít một hơi rồi chúng ta tiếp tục câu chuyện.

Được thôi, có thể ý chí cường lực của tôi có thể kém tệ, có thể tôi sẽ không thể từ bỏ nó, tôi rồi sẽ còn đốt lửa châm lên những điếu thuốc, rít khói thả vào không trung vào một ngày mà nỗi nhớ quá da diết khiến tôi không thể ngăn nổi bước chân mình. Tôi biết nó rồi vẫn còn sẽ đuổi theo tôi trên khắp các con đường lối nhỏ, trong đêm tối lẫn cả ánh sáng, nó muốn tôi thấu hiểu nó chính là những lề thói mà tôi không thể nào rũ bỏ được.

Làm sao có chuyện ấy được, làm sao mình có thể sống thiếu nó? Tôi đã tự hỏi chính mình như thế. Cái gì đó đã thuyết phục khiến tôi phải vâng phục để rời xa người bạn của tôi bấy lâu nay? Cái gì đó đã bước đến tận trái tim tôi, tận cội rễ của trái tim rồi nói lời ngon ngọt để tôi quên đi ánh mắt yêu thương trìu mến của những điếu thuốc, ôm ấp nói lời chào tạm biệt nó để bước chân đi trên một con đường mới mà tôi biết nó sẽ quanh co khúc khuỷu.

Tôi vẫn còn rất nhớ những điều xưa kia mà thuốc lá đã dạy cho tôi khi muốn cố trốn chạy nó. Tôi rồi sẽ lại phải quay về ngã vào lòng nó. Cuộc đời này rồi sẽ làm vỡ tung trái tim tôi và tôi sẽ chỉ biết cách tìm về bên những điếu thuốc để xin một chút hơi nóng sưởi ấm hồi sinh. Tôi biết, tôi biết hết tất cả những điều đó, nhưng vẫn phải lên đường nói lời tạ từ với nó.

Chào tạm biệt những điếu thuốc lá tôi yêu, tạm biệt hương khói quê nhà. Cứ đi dù biết sẽ có khi gặp lại.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: markusspiske 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Cái nhìn khoa học về tuyến tùng (pineal gland)

0

(1440 chữ, 6 phút đọc)

Định nghĩa

Tuyến tùng hoặc thể tùng (pineal gland) được định nghĩa là một tuyến nội tiết nhỏ nằm trong não của các loài động vật có xương sống, ở vùng biểu mô, gần trung tâm não bộ, giữa hai bán cầu và được giấu kín trong một cái rãnh, nơi mà hai mảnh của đồi thị (thalamus) gặp nhau. René Descartes, một trong những triết gia lớn của thế giới, gọi tuyến tùng là “the principal seat of the soul” (tạm dịch: tòa ngự trung tâm của linh hồn). Tuyến tùng sản xuất melatonin, một loại hormone mang nguồn gốc serotonin có khả năng điều chỉnh nhịp thức, ngủ theo chu kỳ sinh học và các mùa trong năm.

Pineal Gland Location
Vị trí của tuyến tùng trong não bộ con người

Tức là bằng một cách thức khó tưởng tượng (sẽ được trình bày trong bài viết sắp tới), tuyến tùng tiếp nhận các thông tin bên ngoài rồi cho ra một lượng melatonin nhất định mà nó tin rằng sẽ can thiệp đúng đắn lên giấc ngủ của chúng ta để phù hợp với điều kiện sinh học cũng như tự nhiên (trong và ngoài cơ thể). Tóm lại, tuyến tùng đóng góp một vai trò tốt đẹp. Tuy nhiên, chừng đó có phải là tất cả hay chưa?

Động vật có xương sống

Không phải bất kỳ một loài động vật có xương sống nào cũng sở hữu tuyến tùng nhưng dù sao đi nữa thì cũng có một cái gì đó liên quan. Điển hình như trường hợp của hagfish (lươn nhầy), một lớp cá nguyên thủy có hình dáng giống với những con lươn, chúng mang trong mình một cấu trúc tương đương thể tùng. Ngoài ra, ở một vài trường hợp khác, các loài đã vô tình đánh mất tuyến tùng trong quá trình tiến hóa.

Hagfish
Hagfish

Tại sao lại là động vật có xương sống? Đơn giản. Hãy nhìn xem động vật có xương sống (bao gồm cả nhân loại) đã làm được những gì trên hành tinh xinh đẹp này.

Không phải dạng vừa trong não bộ con người

Tuyến tùng được đặt tên dựa theo diện mạo của nó, giống với một quả tùng (hình nón thông), màu xám đỏ và có kích thước từ 5 đến 8 mm (đạt tối đa khi chúng ta 2 tuổi). Tuy nhiên, thật đáng kinh ngạc khi tuyến nội tiết nhỏ bé này được cung cấp bảo trợ thần kinh đầy đủ, thậm chí còn sở hữu lưu lượng máu rất đỗi dồi dào (chỉ đứng sau thận). Tôi cho rằng đây không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Những giá trị to lớn

Hãy bắt đầu từ melatonin. Nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng loại hormone này có tác dụng quan trọng trong việc điều chỉnh nhịp thức, ngủ, chống oxy hóa mạnh mẽ, giảm nguy cơ bị thoái hóa thần kinh và duy trì một cuộc sống bình thường cho các chức năng sinh lý khác, bao gồm cả việc ức chế sự phát triển tình dục ở trẻ em. Điều này càng được minh chứng rõ ràng hơn khi rất nhiều trường hợp dậy thì sớm trên thế giới có liên quan mật thiết đến các khối u lành tính của tuyến tùng.

Ngoài ra, tuyến tùng còn ảnh hưởng đến sự bài tiết tuyến yên, sự trao đổi glucose trong máu và sự hoạt động của một số loại chất như cocaine hay fluoxetine (còn gọi là prozac, thuốc chống trầm cảm).

Tóm lại, so với phần định nghĩa ban đầu, tuyến tùng đang mang lại rất nhiều lợi ích không đơn giản. Vậy, điều gì đã khiến cho chúng ta (hầu hết) lãng quên sự tồn tại của nó?

Vôi hóa và những khối u lành tính

Xin nhắc lại một lần nữa, tuyến tùng sở hữu lưu lượng máu rất đỗi dồi dào (chỉ đứng sau thận) và chúng được cung cấp bởi động mạch não sau. Điều này có nghĩa là máu sẽ được lưu thông trực tiếp tới tuyến tùng mà không cần đi qua hàng rào máu não, một lớp phòng ngự kiên cố ngăn chặn các phần tử nhất định (virus, tế bào miễn dịch,…) xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương. Cuối cùng, trong số các “tài nguyên” đi theo dòng máu, tuyến tùng đặc biệt ưa thích florua (fluoride), canxi (calcium), phốt-pho (phosphorus) và clorua (chloride). Theo một cuộc nghiên cứu được trường đại học Surrey (Anh quốc) công bố vào năm 1997, mô mềm của tuyến tùng ở người trưởng thành chứa florua nhiều hơn bất kỳ một mô nào khác trong cơ thể. Vậy thì sao?

Bạn phải hiểu rằng florua và clorua đóng vai trò chủ chốt trong việc ức chế các enzyme, thay đổi chức năng của tuyến tùng theo chiều hướng tiêu cực để rồi tạo điều kiện thuận lợi cho canxi và phốt-pho tích tụ lâu ngày thực hiện quá trình vôi hóa. Kết quả là hầu hết những người trưởng thành đều có một cục canxi nằm sâu trong não bộ, thứ có thể dễ dàng được nhìn thấy khi đi chụp X quang. Vâng, đó chính là tuyến tùng bị vôi hóa.

Pineal Gland of a 44-year-old Man
Ảnh chụp X quang của một người đàn ông 44 tuổi với tuyến tùng bị vôi hóa

Nguyên nhân: Hàm lượng florua và clorua trong nguồn nước sinh hoạt hằng ngày của đại đa số con người chúng ta đang vượt ngưỡng cho phép còn chế độ ăn uống thì không hợp lý với quá nhiều canxi lẫn phốt-pho. Đó là còn chưa kể đến một vài thứ nữa tưởng chừng như không thể nào thiếu sót trong đời sống ngày nay, điển hình là kem đánh răng (chứa florua).

Một vấn đề không kém phần nghiêm trọng mà tuyến tùng gặp phải đó là những khối u được hình thành theo nhiều cách khác nhau. Xét về mặt mô học, những khối u này giống hệt với căn bệnh ung thư biểu mô buồng trứng thường gặp ở nữ giới (chỉ sau ung thư cổ tử cung). Tuy nhiên, vì chúng không gây hại trực tiếp đến tính mạng con người nên đã bị ngành y học hiện thời liệt vào danh sách “những khối u lành tính.” Tức là chẳng đáng quan tâm.

Tôi nghĩ rằng chính cái tư tưởng này đã khiến cho chúng ta (hầu hết) lãng quên sự tồn tại của tuyến tùng. Chẳng mấy ai quan tâm đến hàm lượng florua và clorua trong nước sinh hoạt. Chẳng mấy ai nhìn nhận lại chế độ ăn uống hiện nay có thật sự chuẩn mực hay chưa khi hàng tá người vẫn đi đến bệnh viện mỗi ngày. Chẳng mấy ai thắc mắc về cục canxi trong não. Chẳng mấy ai hồ nghi về những khối u lành tính trong hộp sọ. Tại sao? Vì nó (tuyến tùng) “chẳng đáng quan tâm.”

Tôi xin phép được đặt một dấu chấm hỏi và nêu ra vài nhận định cá nhân trước khi kết thúc bài viết này.

Liệu tuyến tùng có thật sự “chẳng đáng quan tâm”?

Bản thân tôi hoàn toàn đồng ý với những “thuyết âm mưu” (có cơ sở) về tuyến tùng vì chúng tương đồng với giả thuyết mà tôi đưa ra trong một bài viết mang tên “Cỗ máy thời gian, giấc ngủ và những chuyến phiêu lưu kỳ thú. Nào là “con mắt thứ 3”. Nào là “ăng ten tâm hồn”. Tôi sẽ để dành tất cả cho bài viết kế tiếp như một cách bày tỏ lòng tôn trọng với tiêu đề do chính mình đặt ra: Cái nhìn khoa học về tuyến tùng.

Tuy nhiên, dù chỉ là khoa học, tôi vẫn tìm ra được điểm chung hoàn hảo giữa quan điểm cá nhân và sự tồn tại của tuyến tùng. Trong bài viết “Cỗ máy thời gian, giấc ngủ và những chuyến phiêu lưu kỳ thú”, tôi cho rằng con người có thể thông qua việc nâng cao sức khỏe thể xác lẫn tinh thần để kiểm soát linh hồn, điều khiển giấc ngủ, du hành thời gian cũng như làm vài việc vĩ đại hơn nữa. Còn đây là nhắc lại phần định nghĩa: Tuyến tùng sản xuất melatonin, một loại hormone mang nguồn gốc serotonin có khả năng điều chỉnh nhịp thức, ngủ theo chu kỳ sinh học và các mùa trong năm.

Chờ nhé?

Tác giả: Võ Trọng Gia
Tân Uyên, ngày 17 tháng 9 năm 2018

Featured image: Anatomy in a nutshell : a treatise on human anatomy in its relation to osteopathy

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

[Điểm sách] Tình yêu cuộc sống, Jack London – Đọc để thấu hiểu khát khao được sống

0

(1800 chữ, 7.5 phút đọc)

Sẽ là một sự thiếu sót khi bạn không dừng lại ghé chân vào khu vườn sống mãnh liệt trong cuốn sách Tình yêu cuộc sống nếu trước kia bạn đã từng trầm trồ tán dương khúc nhạc tự do cất vang trong tác phẩm Tiếng gọi nơi của hoang dã của nhà văn nổi tiếng người Mỹ Jack London.

Đó không phải là một cuốn tiểu thuyết, cũng chẳng là một câu truyện dài, nó chỉ vẻn vẹn trong vài ba trang giấy nhưng đã xuất sắc đóng trọn vai diễn của mình, để những độc giả không ai có thể rời khỏi vị trí mà không tự nhận về cho mình vài bài học đáng giá. Hãy đọc nó để tự soi chiếu linh hồn mình với đôi cánh bay của tư tưởng còn bị buộc chặt vào những cái chết và sự chán chê đời sống.

Jack London đã khéo léo trình diễn những khó khăn của nhân vật chính trong truyện, một con người bị lạc sắp chết đói đang cố bò lết tìm kiếm cho mình một lối thoát trước tất cả nỗi sợ hãi. Đó là một cuộc đấu tranh sinh tồn nghe ra thì mộc mạc đơn giản nhưng lại ẩn giấu sự khốc liệt phía bên trong.

Câu chuyện miêu tả hai gã đi tìm vàng ở Bắc Cực nhưng có vẻ đã bị lạc đường. Nhân vật chính trong truyên bị bỏ lại bởi một người cùng đi là Bill. Mở màn là nỗi sợ đơn độc giữa thiên nhiên cùng bóng tối, trong cái lạnh giá của tuyết trắng, từ việc ôm ấp những thỏi vàng rồi khi rũ bỏ hết tất cả chúng đi vì sự kiệt quệ, cái đói hành hạ bụng dạ cồn cào. Họ không còn chút sức lực nào để tiếp tục đi, trong giờ phút đấu tranh cho sự sinh tồn.

“Sự sống là thế ư? Một sự hão huyền và thoảng qua. Chỉ có sống là đau đớn mà thôi. Chết thì chẳng đau gì hết. Chết là ngủ. Có nghĩa là thôi, là nghỉ ngơi. Thế thì tại sao gã lại không bằng lòng thế?”

Nhưng đỉnh điểm của câu chuyện đã phản bội tất cả tâm trí gã khi một con sói xuất hiện với mầm mống bệnh tật trong người. Cả con người và con sói đều đang kề cận lưỡi dao tử thần, chính lúc đó gã nhận ra cả gã và con sói đều đang muốn chiến đấu đến cùng để dành quyền được sống. Tâm trí gã coi nhẹ cái chết, nhưng bản năng gã vẫn đang cố gồng mình. Miêu tả một cách sống động và sâu sắc khi đặt con người và con vật vào tình huống gay cấn.

“Gã ngắm đống xương đã lóc sạch thịt và nhẵn bóng, với sinh bào hồng hồng bên trong còn chưa chết hẳn. Liệu có khả năng, gã cũng có thể như thế trước khi ngày tàn không! Suốt đêm, gã nghe thấy tiếng ho của con sói ốm và thỉnh thoảng, tiếng quang quác của bày tuần lộc non. Xung quanh gã đều có sự sống, sự sống cường tráng, rất sinh động và tốt lành, và gã biết con sói ốm bám theo con người ốm với hy vọng là con người chết trước. Sáng dậy, mở mắt ra, gã thấy nó đứng lom khom, đuôi cụp giữa hai chân như một con chó khốn khổ, thiểu não. Nó run cầm cập trong làn gió sớm lạnh giá và nhe răng cười buồn nản khi con người nói với nó bằng một giọng không hơn gì tiếng thì thầm khàn khàn.”

Trong con người gã, cái chết đã đến từ tuổi thanh xuân, nhưng một sự khát khao sống đến muộn phải chăng mới là một tình yêu cuộc sống lâu dài. Gã chưa bao giờ trông thấy một tình yêu cuộc sống nào ngọt ngào đến vậy. Điều gì khiến gã ích kỷ muốn giữ lại chúng trước một con sói cũng đang khát khao được sống. Con sói vẫn đang chờ đợi lão chết trước để xơi gã nhưng nó quá yếu ớt.

“Cữ thu muộn vẫn còn, rồi gã tiếp tục bò rồi lại ngất xỉu, loanh quanh luẩn quẩn hoài, và con sói ốm vẫn ho hắng và khụt khịt sau gót gã. Đầu gối gã đã trầy cả thịt như bàn chân gã, và mặc dầu gã đã cởi áo sơ mi làm đệm gót cho đầu gối, gã vẫn để lại đằng sau một vệt đỏ trên rêu và đá. Một lần, ngoái nhìn lại, gã thấy con sói thèm thuồng liếm vệt máu của gã, và gã hình dung đậm nét cái kết thúc của mình có thể như thế nào…trừ phi gã xơi tái được con sói. Thế rồi bắt đầu một tấn bi kịch để tồn tại, khốc liệt chưa từng thấy một người ốm phải bò lết, một con sói ốm tập tà tập tễnh, hai sinh vật kéo lê thân xác hấp hối qua cảnh hoang sơ, và bên nọ rình cướp sự sống của bên kia.”

Khát vọng sống đột ngột vồ chụp lấy gã, có lẽ giờ đây gã đã học được tình yêu cuộc sống, học yêu thương trái đất. Gã hiểu rằng trước đây mình nói lời khinh miệt sự sống là bởi mình còn chưa chín chắn. Tình yêu cuộc sống còn chưa chín mùi vì thiếu sự trưởng thành. Cho đến khi gã đặt chân lên con đường để về lại lòng đất, gã nhận ra khát vọng sống từ trước đến đây đã bước đi quá chậm chạp trong gã. Đây không phải là một cái chết tự nguyện, cái chết không đến với gã vì gã muốn chết. Sự sống của gã đang bị treo cổ dưới sợi dây mỏng manh, bên cạnh một con sói cũng đang tàn hơi kiệt lực. Gã không muốn nhường nhịn sự sống của mình, nhất là cho một con sói mà gã trông nom nó thật gớm ghiếc.

“Giá nó là một con sói khỏe mạnh, thì hẳn con người cũng chả xem vấn đề hệ trọng đến thế đâu, nhưng nghĩ đến việc phải làm mồi cho dạ dày của cái vật ghê tởm và gần như chết rồi này, gã chẳng ưng chút nào.”

Cả cơ thể gã quằn lên đau đớn như đang cất tiếng phản bội lại sự sống trong gã. Gã không thể tiếp tục bước đi được nữa. Bây giờ gã chỉ còn có thể bò lết đi bằng bốn chân. Gã đau đớn đến nổi chẳng còn cảm giác đau. Mọi giác quan trong gã mệt mỏi ngủ quên.

Jack London khéo léo chiếu rọi hào quang cuối con đường hầm khi vẽ ra con tàu đi lạc trước mắt kẻ sắp chết. Chỉ cần giữ mình trong vùng an toàn trước cái dạ dày của con sói bệnh và tiến gần đến được con tàu, đó là cơ hội duy nhất sống sót của gã.

“Hôm ấy, gã giảm được ba dặm khoảng cách giữa gã và con tàu, hôm sau được hai dặm, vì bây giờ gã cũng bò như Bill đã từng bò, và đến hết ngày thứ năm con tàu vẫn còn cách độ bảy dặm và gã thì thậm chí mỗi ngày không vượt nổi một dặm. Gã chỉ còn cách con tàu có bốn dặm nhưng gã biết mình không thể bò nổi nửa dặm.”

Nhưng con người ấy đã trông thấy được sắc đỏ của hoàng hôn cháy hồng mặt đất như một chân lý mà gã chỉ vừa mới nhận ra trong gang tấc.

Cuộc sống này đầy rẫy những con người đang tự nhận mình là kẻ dư thừa vô tích sự, luôn chán ghét sự sống bởi chẳng biết mình sinh ra trên mặt đất trần gian này để làm gì. Những người đã tự gán cho cái chết một tầm quan trọng. Họ luôn nhớ về cái chết như một tấm lá bùa hộ mệnh, luôn vun đắp chờ đợi cho một cái chết hoàn hảo, cái chết trở thành một lời hứa hẹn đáng trân quý, họ đang chuẩn bị chờ đợi để được chết. Nói đến cái chết nhẹ tựa như lông hồng, Jack London đã mỉa mai những con người đó thế nào đây?

“Con sói đang huy động hết sức tàn trong một cố gắng để cắm ngập chiếc răng vào miếng mồi đã chờ đợi bao lâu. Nhưng con người đã đợi sẵn từ lâu và bàn tay nát bươm nắm lấy hàm nó. Trong khi con sói vật lộn yếu ớt và bàn tay bóp lại một cách yếu ớt, thì bàn tay kia từ từ trườn quan thành một gọng kìm. Năm phút sau, cả trọng lượng của con người đè lên con sói. Hai bàn tay không đủ sức để bóp ngẹt con sói nhưng mặt con người áp sát vào họng con sói và mồm con người đầy những lông.”

Sự kiên trì của con sói thật ghê gớm. Sự kiên trì của con người cũng ghê gớm không kém. Khát khao được sống là bản năng của tất cả con người. Vậy mà kẻ nào đã ngu ngốc vứt bỏ?

Gã đã từng nghĩ mình quá già cỗi để nhìn nhận cái chết một cách bình thản, từ lâu gã đã nghĩ đến những vòng hoa tàn úa treo trên bia mộ cuộc đời, một cái chết chẳng có gì là ghê gớm. Vậy mà giờ đây trong tâm trí của một con người vừa trốn thoát khỏi lưỡi dao tử thần là một khát khao được sống quá mãnh liệt.

Kết thúc truyện, một sự sống lại vừa được tái sinh. Cho đến khi được cứu thoát bởi con tàu gã đã trông thấy, gã vẫn bị ám ảnh bởi cái đói và dự trữ thức ăn đến nỗi “Giường được lót bằng bánh quy khô, đệm được nhồi bằng bánh quy khô, mọi xó xỉnh ngóc ngách đều lèn đầy bánh quy khô. Tuy nhiên, gã không loạn trí. Gã lo đề phòng một nạn đói khác có thể xảy ra-có thế thôi.”

Vâng, một con người sắp chết đói và một con sói cũng sắp chết đói, cả hai đều muốn sống….Tôi chẳng có ý gì cả, chỉ là muốn bạn được đọc một câu chuyện hay. Còn tôi, kẻ đang muốn giới thiệu câu chuyện hấp dẫn này đến bạn cũng vừa trông thấy được điều gì đó.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: LongJohnson

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2