26 C
Nha Trang
Thứ năm, 31 Tháng mười, 2024

PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN

Triết Học Đường Phố - PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
Trang chủ Blog Trang 100

Nét đẹp của sự trống trải

0

(1000 chữ, 4 phút đọc)

Sự trống trải là một cảm giác rất đáng sợ đối với con người, không có gì để làm, không có gì để nghĩ, nó giống như chết vậy thậm chí nó còn gây khó chịu hơn là chết vì ta ý thức được ta đang như vậy. Bạn luôn được dạy rằng ta phải phấn đấu nỗ lực để hoàn thành ước mơ này, thực hiện đam mê kia chẳng hạn hay là cố gắng thay đổi bản thân trở nên tốt hơn, tích cực hơn. Nhưng chắc bạn cũng đã nghe đâu đó rằng chỉ cần ta toàn tâm toàn ý làm một việc gì đó, thì vũ trụ sẽ giúp ta hoàn thành việc đó, không thì đã nghe khoa học công bố đại loại như suy nghĩ có lực hút gì đấy, chỉ cần ta cố gắng hết sức mình làm một việc thì nhất định sẽ thành công.

Vậy trước khi làm việc gì ta muốn nỗ lực đạt được nó, thì chỉ cần cố gắng là đạt được rồi. Trước khi làm đã biết nó sẽ được, tâm trí ta lúc này sẽ nổi lên suy nghĩ: Làm được thì sao mà không được thì sao? Chưa làm được mà đã biết sẽ mình làm được, làm được rồi thì có khác gì lúc chưa làm, vì lúc chưa làm đã biết mình làm được chẳng khác nào việc đó đã hoàn thành ngây từ lúc đầu. Khi bạn đã có suy nghĩ ấy rồi thì còn việc gì để bạn làm hay để bạn suy nghĩ giải quyết một vấn đề nào đó bạn thắc mắc nữa. Người như vậy sẽ luôn có cảm giác trống trải trong thâm tâm.

Nếu đơn giản hoá tâm lý học tính cách thì trên đời chỉ có hai loại người, một là người sống lí trí, hai là người sống tình cảm. Loại thứ hai người sống tình cảm thường sẽ có suy nghĩ như trên dẫn đến có cảm giác trống trải, vì thường những người này luôn mơ mộng. Họ như là một họa sĩ luôn luôn tưởng tượng vẽ ra tương lai phía trước, thậm chí cả cảm giác và suy nghĩ khi hoàn thành một việc mà mình chưa bắt đầu làm trong hiện tại. Họ dễ bị những người khác cười nhạo, xa lánh và kì thị vì sự thiếu thực tế, đa sầu, đa cảm phóng đại cảm xúc của chính mình. Thường thì người ta gắn khái niệm về loại người này sống bằng trái tim nhiều hơn bằng đầu óc, nhưng theo tôi thấy kiểu người này suy tư còn nhiều hơn cả người sống lí trí, chỉ là cách suy tư của họ khác biệt thôi.

Sự suy tư cũng giống cuộc đời của con người. Lúc mới suy tư, ta tiếp nhận những tư tưởng mới lạ giống như đứa trẻ lần đầu tiên thấy một chiếc xe đồ chơi vậy. Dần dần khi lớn lên, ta không chỉ chơi chiếc xe tí hon đồ chơi đó nữa, mà có hẳn một chiếc thật to đùng do chính ta lái. Với ta bây giờ chiếc xe đó bình thường như bao mọi vật như chiếc điện thoại thông minh ta đang xài, hay căn nhà ta đang ở. Suy tư của ta bây giờ như đứa trẻ đã lớn không còn cảm giác ngạc nhiên như lần đầu, mọi thứ ta đã suy tư bây giờ không còn cấp thiết như lúc trước.

Có xe, có điện thoại, có nhà thì bạn sống sung túc, không có những thứ đó thì bạn sống khó khăn hơn nhưng bạn vẫn sẽ sống thôi, không có ảnh hưởng gì nhiều. Suy tư cũng vậy, không có nó ta cũng sống bình thường thôi. Chắc bạn đã nghe người khác nói người mà có tâm trí trống rỗng là ác quỷ, ác quỷ thì đã sao không phải nó cũng tồn tại bình thường với thiên thần sao. Từ khi nào con người có khái niệm rằng thiên thần tốt hơn ác quỷ? Nếu thực sự thiên thần tốt hơn ác quỷ thì tại sao ác quỷ lại tồn tại, không phải con người luôn muốn cái tốt hơn sao. Con người luôn muốn lên thiên đường làm thiên thần, nhưng họ lại không muốn chết. Con người luôn có những khái niệm khái niệm khôi hài, thậm chí họ đóng khung Thượng Đế thành một khái niệm triết lý để tôn thờ.

Cái cây, cọng cỏ, con mèo không cần suy tư vẫn có thể sống, con người là gì níu bám vào nó để sống chứ. Sự trống trải là cảm giác dù muốn dù không gì nó cũng đến với bạn rồi, vậy sao bạn không chấp nhận nó ngay từ đầu, quan sát nó, tận hưởng nó thay vì sợ hãi, chối bỏ và trốn chạy nó. Người suy tư nhiều luôn mang gánh nặng theo trong đầu. Khoảnh khắc bạn cảm nhận sự trống trải trong tâm khảm mình, bạn không cảm thấy một sự thảnh thơi sâu sắc quăng bỏ gánh nặng khỏi đầu mình sao? Không còn gì để nghĩ, không còn việc gì buộc phải làm, không còn nơi nào buộc phải đi – một sự tự do hoàn toàn. Chỉ còn lại một sự trống trải bao la trong bạn. Một cảm giác vui sướng sâu trong thâm tâm, bạn không nhận ra nó sao. Bạn muốn tự do hay làm nô lệ cho chính tư tưởng của mình? Hãy luôn luôn quan sát thâm tâm mình với sự chấp thuận hoàn toàn, bạn rồi sẽ nhận ra dù là sự trống trải cũng có những nét đẹp riêng của chính nó. Vì là tờ giấy trắng nên ta có ý tưởng vẽ bất cứ những gì ta muốn, một khi tờ giấy đã có bức vẽ rồi thì ta không thể vẽ thêm được gì nữa.

Tác giả: Khongcoten

*Featured Image: jplenio 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Làm sao để vượt qua nỗi sợ hãi?

0

(1150 chữ, 5 phút đọc)

1. Câu chuyện về nỗi sợ

Giữa những chương trình luyện tập khắc nghiệt của Hải quân SEAL (Mĩ), có một bài kiểm tra đơn giản hơn: Nhảy feetfirst xuống nước, bơi một vòng bể, đạp vào thành bên kia, và bơi lại-tất cả được thực hiện mà không có một giây nào để thở.

Nghe thì tưởng đơn giản, nhưng qua các năm, không nhiều sĩ quan mới có thể hoàn thành bài kiểm tra này trọn vẹn. Một số đã đạp vào thành bể bên kia nhưng ngất xỉu khi bơi trở lại, trôi bồng bềnh trên mặt nước như những con cá chết. Về mặt thể chất, họ đều có thể vượt qua bài kiểm tra. Tuy nhiên, dường như các sĩ quan này chạm tới một điểm mà họ nghĩ rằng họ không thể bơi thêm nữa. Họ tự nhắc chính mình rằng họ không thể, và họ hoảng sợ và đốt cháy oxy nhanh hơn, và cuối cùng, ngất đi. Họ đã sợ.

Nỗi sợ là một phần của cuộc sống theo cách nào đó. Chúng ta bắt đầu các kỳ thi và sợ rằng mình không thể vượt qua; chúng ta bắt đầu một trận bóng đá lo lắng rằng mình sẽ thất bại; chúng ta viết lách sợ hãi rằng kĩ năng của mình thật kém cỏi. Cuối cùng chúng ta thoả mãn những nỗi sợ ấy. Chính kiến thức cho kỳ thi mới là điều mà chúng ta nên tập trung vào, và chính những kỹ năng đá bóng mới nên là trung tâm của trận đấu, và chính kĩ năng viết của chúng ta mới hoàn toàn là thứ chúng ta muốn rèn luyện. Điều chúng ta nên đưa vào công việc không phải là nỗi sợ. Khi đối mặt với một thử thách khó khăn, chúng ta thường tránh nhìn thẳng vào vấn đề mà sợ hãi. Điều này vô tình làm cho những nỗi sợ ấy lớn lên tới một kích thước mà đôi khi, chúng ta không kiểm soát được nữa.

Nói đơn giản, chúng ta đối phó với nỗi sợ bằng cách để nó phát triển âm thầm. Những thực tập sinh của SEAL chắc chắn biết rằng họ cần phải bình tĩnh. Nhưng đó là một cái cần lớn. Họ để cho nỗi sợ hãi phát triển và tràn ngập tâm trí của họ; sau đó, nó làm xói mòn sức mạnh của họ và đẩy họ vào vô thức. Khi chúng ta ngồi trong phòng thi, đôi khi chúng ta chạy trốn khỏi thực tế và trú ẩn dưới sự sợ hãi của chúng mình, cho phép chúng xâm nhập tâm trí và hạn chế khả năng của chúng ta để giải quyết vấn đề. Xin đừng hiểu lầm, tôi không tẩy chay nỗi sợ. Nỗi sợ nói riêng những thử thách tinh thần nói chung, thực sự là ‘cái bóng’ của chúng ta. Dưới ánh mặt trời, cái bóng luôn ở đó, dù muốn dù không.

2. Vấn đề là gì?

Nỗi sợ đáng sợ nhất chính là nỗi sợ những sợ hãi. Chúng ta run rẩy trước những nỗi sợ của mình đến mức chúng ta mất kiểm soát chúng. Chúng ta cố gắng kiểm soát, nhưng thường thất bại. Tại sao?

Bởi vì nỗi sợ thực ra là một bóng ngựa ngang bướng và bất kham. Hơn nữa, nó được mã hóa trong DNA của chúng ta và một phần của bản chất của con người. Chúng ta phải thừa nhận rằng sợ hãi là không thể tránh được; chúng ta và bóng của chúng ta không tách rời và không thể tách rời. Các trung sĩ e ngại rằng họ sẽ không hoàn thành nhiệm vụ, nhưng vấn đề chỉ xuất hiện khi họ bị chết đuối trong nỗ lực chạy trốn khỏi nỗi sợ đó. Chúng ta lo lắng nếu chúng ta thất bại trong các kỳ thi, nhưng vấn đề là chúng ta không dừng lại và xem xét sự lo âu đó chỉ vì chúng ta quá bối rối khi phải đối mặt với nỗi kinh hãi của chính mình. Chúng ta tiếp tục viết trong sự bất an và trong sự quy phục những hoảng hốt bồn chồn. Chúng ta không hiểu rằng thời điểm chính mình đầu hàng nỗi sợ và tiếp tục cuộc sống dưới trướng của nó cũng là lúc chúng ta ngừng bơi và chìm đắm trong cái bể của tăm tối.

3. Tôi nên làm gì?

Chúng ta không nên bỏ qua nỗi sợ của mình. Chúng ta cũng không nên chiến đấu và đánh bại chúng. Chúng ta nên chấp nhận và kết bạn với chúng.

Bạn có thể tự hỏi: “Chấp nhận nỗi sợ ư? Kết bạn với những gì đã làm cho tôi trượt? Thật điên rồ!” Tôi không phủ nhận. Ý tưởng này nghe có vẻ vô lý nhưng hãy nghĩ về nó. Bên ngoài những cái bóng là ánh sáng mặt trời và ở phía bên kia của hồ bơi sợ hãi là vạch đích. Sợ hãi là một người bạn quan trọng của người thắng cuộc. Khi đôi mắt của bạn nhìn thấy sự tối tăm của những cái bóng và làn da của bạn cảm thấy sự lạnh lẽo của làn nước vô cảm, bạn biết rằng mặt trời đang rọi sáng vạch đích ở thành bể bên kia. Nỗi sợ chỉ dẫn bạn đến chiến thắng; khi nước bịt lấy đầu mũi và sợ hãi làm ngập tâm trí bạn, bạn biết mọi thứ đang trở nên thú vị. Khi bạn chấp nhận nỗi sợ hãi làm bạn của mình, cuối cùng bạn sẽ thoát khỏi vòng lặp nghịch lý của nỗi sợ những sợ hãi. Bởi vì bây giờ, bạn không còn hoảng hốt trước nỗi sợ của chính mình nữa. Bạn chấp nhận nó là một phần của trò chơi, bạn để nó kích thích bạn, nhưng không kiểm soát bạn.

Tâm trí cần đứng yên để cơ thể có thể di chuyển. Cách duy nhất để chạy thoát những cái bóng là đứng yên dưới những cái bóng. Tâm trí chúng ta nên dừng lại để quan sát và tìm hiểu những gì chúng ta sợ, để nhận ra rằng những cái bóng chẳng thể xoá được, và là bạn của chúng ta. Hãy bảo tâm trí của bạn ngừng hoảng loạn để cơ thể bạn có thể bắt đầu sải tay trên đường bơi.

Kẻ thù duy nhất của chúng ta là nỗi sợ những sợ hãi, nhưng nó lại là người bạn tốt nhất của chúng ta. Chỉ sau khi chết chìm dưới dòng nước, tâm trí ta mới thoát khỏi những cái bóng. Khi ấy, đôi mắt của chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy được mặt trời đang soi sáng vạch đích ở bờ bên kia.

Tác giả: Sang Doan

*Featured Image: Pexels

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Quốc Khánh 2/9 – Nhà nhà treo cờ để làm gì?

0

(1262 chữ, 5 phút đọc)

Sáng nay ra phố, muốn ngồi trong quán cà phê nhìn thật lâu phố xá, dành dụm dự trữ cho mấy ngày lễ đóng cửa chôn chân trong núi. Đã sống qua bao dịp lễ nhưng dịp nào cũng không làm quen được trước biển người chen lấn xô đẩy đi trẩy hội. Trong lúc chăm chú ngắm nhìn một chú lớn tuổi đang tỉ mỉ treo cờ trước hiên nhà, tôi vô tình nghe được những lời không hay ho của một vài người ngồi bàn bên cạnh. Không tiện nhắc lại lời chửi bới thậm tệ, cũng không có ý muốn khẳng định với ai về quan điểm chủ quan riêng tôi. Chỉ là tôi không thể hiểu được hành động mọi nhà treo cờ vào dịp lễ, thực sự chướng tai gai mắt với một số người vậy sao?

Lễ Quốc Khánh 2/9 đang đến gần. Dịp lễ lớn bao giờ mọi người cũng được nghỉ phép, ra đường đi đâu cũng ngập tràn sắc cờ đỏ sao vàng tung bay phất phới trên mọi nẻo đường. Lịch sử đã dạy dỗ, 2/9 được xem là Quốc Khánh của dân tộc Việt Nam, là ngày chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập đánh dấu một cột mốc mới trong trang sử hào hùng của dân tộc ta. Đọc đến đây nếu có vị hào kiệt nào cảm thấy bức bách khó chịu vì nghĩ rằng 2/9/1945 không phải là Quốc Khánh Việt Nam. Bạn đọc được những ghi chép trước đó 11/3/1945 quốc trưởng Bảo Đại đã đọc bản tuyên ngôn độc lập trước toàn dân và đại sứ Nhật Bản, tạo ra một chế độ mới khi ấy Bắc-Nam chưa chia cắt. Rồi chính phủ Trần Trọng Kim thành lập sau khi tuyên bố độc lập là tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa. Bạn tin rằng ai đó đã lật đổ chính quyền Trần Trọng Kim và giết ông ấy, rồi tự xưng là quốc trưởng viết ra bản tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, tuyên bố độc lập trong khi Việt Nam đã độc lập. Bạn cương quyết bảo vệ những thông tin được ghi chép trong tâm trí bạn. Ngày độc lập của Việt Nam là 11/3/1945, do quốc trưởng Bảo Đại tuyên bố, chứ không phải 2/9/1945. Tôi tôn trọng tất cả ý kiến mà bạn đã cất công tìm tòi và xây dựng trong thư viện dữ liệu lập trình cho riêng bạn. Cũng như tôi cũng rất yêu quý những điều mà tôi đã đầu tư thời gian và sức lực để vun đắp riêng cho tôi. Trong hồi ký của Cựu Hoàng Bảo Đại mà tôi từng đọc qua, tôi vẫn nhớ rõ câu nói: “Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước nô lệ.” – được viết trong Tuyên Ngôn thoái vị mà Cựu Hoàng Bảo Đại đã đọc trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn chiều 30/8/1945. Nếu thực sự có một nước độc lập dưới tay Bảo Đại, ông ấy chắc hẳn không cần phải hổ thẹn khi nói ra những lời này?

Dạo một vòng quanh phố phường lịch sử, tôi không có ý đưa bạn đến nơi đâu xa lạ, chỉ là một vài sơ lược để bạn đọc hiểu rằng lịch sử Việt Nam đã viết tên ngày 2/9/1945 chính là ngày Quốc Khánh Việt Nam. Đó là câu chuyện của quá khứ mà thế hệ chúng ta ngày nay đang đón nhận bằng việc treo cờ tưởng nhớ một ngày trọng đại của dân tộc. Nó đã trở thành một nghi lễ quen thuộc, thể hiện lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí độc lập, tự chủ của dân ta. Vâng, đó là câu chuyện trên lý thuyết nghĩa vụ một công dân.

Thực tế là hành động treo Quốc Kỳ trong những ngày lễ lớn không ghê gớm như bạn vẫn nghĩ. Nó không phải là một hành động chính trị hay tư tưởng như bạn vẫn đang suy diễn. Tôi đã thấy bao nhiêu gia đình xung quanh tôi háo hức treo cờ để chờ đợi đến ngày nghỉ lễ, không phải vì họ có những lý tưởng cao xa như một số vị anh hùng hào kiệt nào đó. Dịp lễ lớn là dịp họ được nghỉ ngơi thư giãn sau một thời gian dài làm việc vất vả. Những ngày nghỉ kéo dài là chuyến xe đưa đón họ đến những chân trời xa, là những ngày được vi vu thưởng ngoạn tận hưởng giây phút ngọt ngào hạnh phúc bên gia đình. Bạn bè tôi trông đợi ngày lễ để được làm việc với chi phí nhân công trả gấp hai gấp ba ngày làm việc bình thường. Một số cụ già bô lão trong xóm tôi chờ đợi ngày lễ để đón con cái họ tha phương trở về sum họp đoàn tụ ngồi chung vui bên một mâm cơm gia đình. Họ biết cách tận hưởng những ngày lễ, họ không quan tâm đến lịch sử. Họ chỉ biết sống ở hiện tại, họ không còn muốn nhớ về một quá khứ đau thương tan nát.

Cũng nhắc đến những người treo cờ trong ngày lễ chỉ bởi mang tính hình thức, không phải người dân Việt Nam nào sinh ra cũng mang theo trong mình sứ mệnh thiêng liêng cao cả, họ chỉ cần một cuộc sống bình dị, một đất nước yên bình. Chính vì thế mà ý nghĩa của việc treo Quốc Kỳ trong ngày lễ, họ không quan tâm, họ chỉ treo vì đó là một thói quen, một sắc lệnh mà cấp trên ban xuống, và họ thực hiện nó nghiêm chỉnh như đó là nghĩa vụ của một công dân. Họ không suy nghĩ nhiều và cao xa như những anh hùng tự nhận mình yêu nước. Họ cũng không đủ khả năng để gánh vác những trọng trách to lớn vĩ đại mà các bạn đang cưu mang. Vậy thì hành động một ông già mang cờ Tổ Quốc ra treo trước hiên nhà có đáng để mang ra bới móc và xúc phạm? Tôi không thể trả lời giúp bạn, tất cả đều có câu giải đáp thích đáng trong tự thân mình.

Và thực sự là nếu người dân Việt Nam treo Quốc Kỳ trong các dịp lễ để thể hiện lòng tôn trọng với đất nước, với biểu tượng thiêng liêng của dân tộc, có gì sai? Bạn đã từng trông thấy biển người tràn ngập với sắc đỏ sao vàng tung bay ngập kín bầu trời nước Nam khi U23 Việt Nam trở về sau những trận thi đấu trong khoảng thời gian gần đây. Bạn không thấy xúc động vì hình ảnh đó? Bạn thực không trông thấy một tinh thần dân tộc đoàn kết hiếm có trên thế giới mà bạn bè nước khác đang có thể ghen tị? Bạn có thực sự yêu nước và muốn khoác chung một màu cờ dân tộc? Một lá cờ thì có ý nghĩa gì, người ta đem bán tràn lan đại hải trong chợ, ngoài đường phố, cũng chỉ được may ra từ những mảnh vải chắp nối từ miếng vụn này khúc vải thừa kia. Nhưng nó là tinh thần yêu nước, là tinh thần dân tộc.

Vậy thì cờ Tổ Quốc kiêu hãnh tung bay hai bên đường, trong lòng mỗi người dân Việt dâng trào niềm tự hào mình là người con Đất Việt, có gì sai?

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: tintucvietnam

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Đứa trẻ lớn lên để trở về đứa trẻ

1

(1202 chữ, 5 phút đọc)

Hôm nay tôi chợt nhớ về những ký ức tuổi thơ ngọt ngào của mình ở chốn thốn quê dân dã – nơi vắng mặt những ồn ào của phố xá bộn bề lo toan, nơi chỉ toàn ánh mặt trời dịu êm với những hàng cây đung đưa ngợp bóng. Tất cả những gì hiện ra là nét trong trẻo ngây thơ hòa lẫn trong tiếng cười hay tiếng khóc của một tuổi đời non nớt. Rồi tôi bỗng tự hỏi rằng tại sao ngày bé mình có thể hạnh phúc hồn nhiên được như vậy mà khi lớn lên, những ưu phiền đau khổ lại dễ dàng thâm nhập và bám rễ vào cuộc đời mình đến thế?

Hồi nhỏ, tôi vẫn thường quanh quẩn ngoài bãi cỏ trước nhà, ngồi thu lu một chỗ nào đó quan sát đàn kiến con đang bò về tổ trong niềm say sưa khôn tả. Rồi một lúc sau, tôi dùng tay khều khều những ngọn cỏ xanh trước mắt đầy thích thú. Nhưng khi thấy chúng ram ráp và ẩm ướt, tôi lại thu tay về. Tôi cúi xuống nhìn vào chân mình đang đi đôi dép con mèo màu đỏ, và tôi chuyển sang nghịch nghịch cái mắt kính của con mèo rồi mau chóng quên luôn đám cỏ và lũ kiến.

Vậy mà bây giờ, có những lúc tôi chẳng dành cho mình chút thời gian để ăn một miếng cơm cho trọn vẹn, chẳng thể hết lòng với một lần đứng tắm dưới vòi sen, và cũng nhãng đi những vần điệu trên trang sách đang lật giở khi mải mê nghĩ về một chuyện buồn ngày hôm trước. Tôi không hiểu được tại sao những say mê dành cho thế giới thuở nào nay đã cạn khô đến tàn nhẫn theo sự lớn lên của xác thân này. Có phải tình yêu và sự tò mò của tôi đã bị thiêu đốt bởi chính những vội vàng và xốc nổi bên trong lòng? Có phải nếu dừng lại thêm một phút giây nữa thôi, tôi sẽ lại cảm thấy lũ kiến, đôi dép con mèo và bãi cỏ năm nào?

Tôi vẫn nhớ như in những ngày mình cùng con chó béo ục ịch màu vàng nâu chạy nhảy ngoài cánh đồng còn trơ những gốc rạ và đuổi theo những con cò trắng muốt. Dù biết chắc chắn rằng sẽ không bao giờ bắt được con cò nào nhưng tôi vẫn cứ chạy theo chúng vì niềm vui lúc ấy chẳng hề nằm trong chuyện bắt được mà ở ngay chính việc đuổi theo. Còn con chó béo thấy tôi chạy thì cũng hùa theo đầy phấn khích. Sau một hồi rượt bắt, cả tôi và nó đều mệt bở hơi tai nhưng lại thấy hạnh phúc vô bờ bến. Hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục trò chơi đó với thêm một người bạn nữa.

Vậy mà bây giờ, có những lúc tôi e sợ phải tiến lên khi nghĩ về những khả năng có thể không thành tựu như mong muốn. Tôi run rẩy trong những toan tính cho một thành tích mơ hồ nào đó trong tương lai để rồi kiệt quệ với tâm tư không lối thoát của chính mình. Phải chăng, tôi nên để tất cả bay đi như những con cò trắng kia và chỉ hết lòng vui chơi giữa một cuộc truy đuổi hồn nhiên nhất?

Tôi vẫn chưa từng quên hồi bé mình lang thang cùng đám bạn ở những đoạn đường mòn, mang theo vỏ lon bia để chơi trò bữa cơm ấm cúng. Chúng tôi đứa thì mang được một nắm gạo từ nhà, đứa thì vặt đám hoa dại ven đường để bỏ hết vào nồi nấu, còn có đứa thêm luôn cả mớ sỏi li ti nữa. Nhưng rồi đến cuối cùng, trên bếp lửa bé tý teo bập bùng được dựng nên từ ba viên gạch, tất cả thức ăn cháy đen thui còn cái lon bia thì bị nóng quá mà thủng luôn cả đáy. Lũ chúng tôi cứ cười bò ngặt nghẽo và bảo nhau rằng cả nhà ta hôm nay chết đói cả lượt rồi và chúng tôi mau chóng dùng cái nồi thủng đen đúa đó để chơi trò ném lon rồi cãi nhau chí chóe.

Vậy mà bây giờ, có những chuyện chẳng nằm trong kỳ vọng xảy ra và tôi cứ thế ôm ấp chúng bên mình với nỗi niềm bất mãn chán chường. Rồi phải mất nhiều ngày trời, thậm chí nhiều tháng năm trời để có thể quên đi những chuyện buồn ấy. Trẻ thơ đã luôn tìm thấy một lối ra, một góc nhìn khác với cuộc đời, vậy tại sao khi lớn lên, tôi lại để cho khả năng ấy bị thui chột? Phải chăng, tôi nên cầm dép và lia vào những cái lon bia của thất vọng, cho chúng đổ kềnh càng rồi lăn lốc lốc trên nền đất cùng một mẻ cười đắc thắng hả hê?

Hôm nay nhớ về tuổi thơ tôi chợt nhận ra rằng chúng ta lớn lên cũng là để học cách trở về thơ trẻ. Đến một lúc nào đó ta sẽ nhận ra bức tranh tương phản giữa những hồn nhiên trong sáng và những lắt léo mưu toan để biết được cái gì cần chăm tưới và cái gì cần gạn lọc mỗi ngày. Chỉ đến lúc ấy, những điều hạnh phúc mới thật sự là vĩnh cửu vì chúng không còn là một sản phẩm có sẵn tự nhiên nằm trong những ngây dại của bé thơ, mà là một thứ ta thật sự chạm tới bằng sự thấu hiểu và nỗ lực luyện rèn. Đó cũng chính là lý do tại sao những em bé hồn nhiên có thể lớn lên thành một người lớn khổ đau, nhưng một người lớn hạnh phúc sẽ không bao giờ quay về đau khổ nữa, vì họ đã chuyển hóa tất cả những hạt mầm bóng tối thành sự sáng trong của một mầm non không vết tỳ.

Có phải những ký ức tuổi thơ đang kéo tay tôi quay về với nó, hay thực ra, chính tôi đang mang những niềm hạnh phúc say mê của thời bé bỏng vào trong những phút giây của tuổi trưởng thành? Dù sao chuyện đó cũng không còn quan trọng nữa rồi vì tôi đã nhận ra rằng những sự hồn nhiên tươi mát vốn dĩ luôn hiện diện trong bất kỳ dấu vết thời gian nào và trong bất kỳ dáng hình con người nào.

Từ nay, tôi sẽ vẫn vui vẻ nghịch bong bóng xà bông ở những kẽ ngón tay trong lúc tắm. Tôi sẽ vẫn ngắm nhìn những giọt nước bắn lấp lánh tung tóe trong lúc rửa rau. Tôi sẽ vẫn lang thang ngoài sân chiêm ngưỡng một con chuồn chuồn đậu ngủ. Tôi sẽ vẫn chạy đuổi theo những con bươm bướm trắng dập dờn ngoài bờ đê. Tôi sẽ vẫn xếp những chiếc lá rụng rơi thành hình thù kỳ quặc.

Tôi sẽ cười, sẽ khóc và sẽ trở về là đứa trẻ ngày xưa.

Tác giả: Vũ Thanh Hòa

*Featured Image: langll 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

 

Đừng sợ hãi những con quỷ trong bạn

0

(1356 chữ, 5 phút đọc)

Nếu ai đó nói rằng họ hiểu bạn. Đừng nhẹ dạ cả tin lời kẻ nịnh nọt. Bạn thừa thông minh nhận ra: “Bạn đôi khi còn không hiểu nổi chính mình.”

Bạn dễ dàng quán xuyến được, đó là việc có khi bạn hài lòng, nhưng đôi khi tâm trí bạn đấu tranh dằn vặt giữa có không, nên và không nên, có khi hiền lành dung dị, khi lại hung dữ cục cằn. Quá quen với hai luồng gió thổi qua tâm trí, bạn tự huyễn có một con quỷ, con còn lại phải chăng là thiên thần? Tuy nhiên, sự thật chỉ có hai, hay còn có ba, có bốn?

Chẳng có gì phải hoảng hốt sợ hãi vì đó là căn nguyên nguồn cội của con người. Những con người với hình dáng bên ngoài đang đội lốt che dấu con quỷ. Vậy có bao nhiêu con quỷ hóa trang thân phận con người ẩn nấp trong bạn?

Câu trả lời của tôi là có rất nhiều. Sứ mệnh của chúng là tu luyện và trải qua vạn kiếp nạn để chạm đến hào quang, và cũng có những con khác khoác áo thiên thần. Chính vì thế luôn có những cuộc tranh cãi diễn ra trong chính tâm trí bạn, những cuộc vật lộn giữa ác quỷ và thiên thần.

Chúng tồn tại song song, chưa bao giờ có một điểm cắt, không thể tương trợ, chỉ luôn ganh tị. Chưa bao giờ chung sống hòa bình, luôn biết cách làm khổ phần kia. Nhưng chúng chưa bao giờ gây đổ máu ngay trên quê hương khốn khổ mặc dù quỷ hay thiên thần cũng đều sống với lý tưởng bảo vệ cái tôi được xem là sứ mệnh.

Đôi khi chúng ta cảm thấy mình yêu cuộc sống, yêu quý những người xung quanh, nhìn cuộc sống bằng những màu sắc tích cực. Một ngày thiên thần thức dậy và biết ơn cuộc đời bằng tất cả đơn sơ nhỏ bé nhất. Nhưng cũng có hôm mây đen giăng kín phủ bầu trời, mặc dù chúng ta có thể ngồi trong nhà tận hưởng một ngày mùa đông ấm áp thì con quỷ vẫn cố soi cái nhìn ra ô cửa sổ để than vãn oán trách. Ta ngồi trong nhà nhưng vẫn cố rình rập, nhòm ngó, bình phẩm bên ngoài bằng sự tiêu cực.

Con quỷ trong bạn luôn đòi hỏi những gì khiến nó hài lòng, không bao giờ chịu khuất phục. Nó muốn đơn độc, muốn uống máu tươi từ đời sống, nhìn mọi thứ xung quanh dưới nhãn quan của bóng đêm, khinh miệt mọi sự, kiêu căng khinh bỉ tất cả những gì thuộc về thiên thần. Thiên thần với sứ mệnh cảm hóa linh hồn ác quỷ. Tuy không giết chết được con quỷ dã thú, vẫn biết cách để con quỷ chán chường, mệt mỏi và thỉnh thoảng muốn tìm nơi nghỉ ngơi. Con quỷ muốn tự do, hoang dã mạnh bạo. Thiên thần ngược lại chỉ muốn những điều tốt và sự dịu dàng, ghét tất cả sự phẫn nộ giận dữ trong bản tính con quỷ.

Khi đứng trước sự trần trụi của chính mình, bạn thấy mình thật bất hạnh. Chúng ta muốn được sống trọn vẹn, yêu thương trọn vẹn chứ không phải kiểu nửa mùa. Nhưng đó không phải là bất hạnh như bạn nghĩ, mặc cho đôi khi ta là quỷ, đôi khi ta là thiên thần. Chúng chưa bao giờ lẫn lộn vào nhau. Chúng vẫn có thể thở chung một bầu không khí. Chúng giúp chúng ta nhìn trọn vẹn khuôn mặt cuộc đời qua nhiều thiên hướng. Chúng biết cách sống hòa hoãn, rõ ràng là chức năng chúng không lẫn lộn. Điều đó tạo ra những giây phút ngắn ngủi trong cuộc đời bạn, may mắn nhìn thấy những điều phi thường mà nếu chỉ là một trong quỷ hoặc thiên thần thì bạn sẽ bỏ lỡ.

Có một sự thật, khi bạn đủ khả năng để hiểu và linh cảm thấy sự tồn tại của quỷ và thiên thần đang cư ngụ trong linh hồn mình, bạn còn có thể nhận ra không chỉ là hai, mà thậm chí là ba, là rất rất nhiều những con sói, con báo, con mèo đang cùng chung sống trong tâm tưởng bạn chẳng khác gì một thiên đường lộng lẫy. Bạn sẽ không còn đổ lỗi những lúc nóng giận, hèn nhát, ích kỷ… là bởi tại con quỷ đang cố gắng tranh giành tâm trí bạn trong lồng ngực chật chội. Vì bạn đã hiểu ra con quỷ trong bạn chính là một phần đáng quý của bạn. Khu vườn địa đàng trong bạn với hàng trăm sinh vật đang sống, sinh vật nào cũng đáng yêu. Bạn không còn muốn giết chết bất kỳ con nào, bạn đã hiểu sâu về chính mình và đã có thể làm chủ nó.

Chào mi! Hỡi con quỷ trong ta. Bạn vẫy tay mỉm cười. Bạn hiểu rõ nó là tất cả những gì gần gũi quen thuộc nhất đối với tâm hồn mình. Tự bao giờ bạn học cách thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi những con quỷ đáng thương, tuyên thệ với chính mình hãy dùng sự bao dung rộng lượng để ôm trọn nó vào lòng. Những hỗn mang đã đem chúng ta ra khỏi đời sống này, đến bên cạnh những con quỷ để vuốt ve âu yếm, học cách sống dung hòa cùng nó. Bạn thậm chí còn khao khát được nhìn thấy, muốn sờ chạm vào, không còn muốn túm đầu nắm tóc tỏ vẻ đe dọa hung hăng khiến chúng phải khiếp sợ run lẩy bẩy.

Sẽ đến lúc dẫu biết rằng những con quỷ chính là hung thủ gây ra cơn điên cuồng chao đảo, phá vỡ vùng trời bình yên nơi linh hồn bạn đang cư ngụ, dẫu biết rằng những con quỷ trong bạn chỉ đáng làm những con cừu thù lén lút, và bạn thừa sức khám phá ra hang hóc chúng đang cư trú, nhưng thôi, bạn chỉ muốn nhìn vào bọn chúng bằng một nụ cười, xóa tan hận thù bằng yêu thương. Bởi bạn hiểu ra còn có kẻ nào đáng thương hơn trong đời sống này mà không phải là những kẻ thiếu vắng tình thương.

Bạn không còn nuôi ý chí trả thù, không còn cố nói lời sỉ nhục. Bạn hiểu ra con quỷ trong ta cũng đã từng nồng nhiệt hăng say như một đứa trẻ, nói lời ngây thơ và sống hồn nhiên vô tư lự. Nhưng ngọn lửa nào đã đốt lên trong chúng? Điều gì đã biến chúng băng giá lạnh lùng? Chính bọn chúng cũng luôn cảm thấy mình đã đi quá xa tiếng cười con trẻ. Chính chúng cũng đã quá mệt mỏi đến nỗi muốn lăn ra ngủ say. Mỗi một lời than vãn cất lên đều ẩn chứa trong đó một vết thương đã hằn sâu đến tận xương tủy. Chúng cũng muốn yêu quý cuộc đời bằng tất cả sự chân thật nhất, không phải hòa lẫn với đời sống bằng sự giả tạo. Chúng chỉ chán ngán phải nghe đức hạnh rao giảng đạo lý đời sống, chỉ muốn tự thân mình sẽ trở thành người đi rao giảng. Không phải vì chúng muốn làm điều ác, chúng đã quá chán ngán sự lương thiện gian trá.

Hãy học cách kiên nhẫn, cho đến khi những con quỷ trong bạn đến tuổi trưởng thành. Đó là khi thiên thần và cả ác quỷ  hòa quyện trong yêu thương. Chúng không còn gọi nhau bằng những cái tên, không còn sự phân biệt thiện ác, xấu đẹp, không là thiên thần mà cũng chẳng là ác quỷ. Phải chăng đó là khi bạn đã đi đủ xa để chạm vạch biên giới con người?

Chúng ta thuộc dòng giống con người sao? Không, tôi cho rằng chúng ta đang trong quá trình tiến hóa từ những con quỷ.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image:  jplenio 

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Về Huế đi em! Huế buồn muôn thuở

10

(1191 chữ, 4 phút đọc)

Sáng nay Đà Lạt trầm mình trong mưa. Tôi bước vội vã trên con đường đất đỏ dẫn lối từ nơi trái tim cư ngụ ra thế giới bên ngoài, bỗng nghe tiếng bước chân mình u sầu đang giẫm trên sỏi đá, âm thanh nào cất lên khiến trái tim mình ủ dột, bỗng thấy nhung nhớ, bỗng vội vàng che giấu những yêu thương trở về trong câu hát: “Bóng dáng một người, biết giờ ở mô, mà tìm không thấy, nhớ những năm xưa, tà áo tím hồng, tạ từ mấy câu…”

Huế ơi, tôi nói rằng tôi sẽ trở về, nhưng năm tháng lạnh lùng nào đã vội bôi xóa câu thề. Huế ơi, trái tim người em gái tha hương bước chân lên chuyến đò viễn xứ vẫn còn trôi dạt lênh đênh. Huế ơi, bao lần nhắc tên Huế là bấy nhiêu lần nhớ thương. Huế ơi, Huế buồn muôn thuở, cũng như em.

19 năm Huế nắm giữ linh hồn tôi, đọc thuộc lòng tên tôi trên từng con phố nhỏ. Những ngày tan trường e ấp nép sau lưng ai, tà áo dài trắng tinh khôi với nụ cười duyên dáng thẹn thùng. Những chiều bước đi giữa an nhiên đời thường, lắng nghe tiếng chuông chùa ngân vọng từ xa, tôi nhẹ nhàng che giấu chút ít mảnh hồn đa mang của cô thiếu nữ, rồi bỗng trầm mặc lạ thường. Những chiều mưa lang thang ướt trọn mái đầu tìm đường dẫn lối vào quán cà phê thân thuộc, lặng nhìn thành cổ trầm mình giữa sương khói bụi đời mà vẫn luôn giữ được nét trầm lắng, thanh tú. Càng sống lâu hơn những ngày được sống, Huế càng thơ mộng và trưởng thành, phô ra cái nét riêng rất Huế giữa đất trời thênh thang.

Huế khoác lên mình lối kiến trúc cổ kính. Đó là những thành quách, cung đình, đền miếu, lăng tẩm. Huế giàu có kếch xù với khối tài sản kho báu kiến trúc đồ sộ, để những đứa con được sinh ra từ Huế như tôi luôn thấm đẫm trong máu mình sự tự hào, để rồi đã bao người trưởng thành lớn lên và lạc chân đến vùng trời xa lạ, vẫn nuôi dưỡng trong mình một ngày không xa được trở về.

Huế được ưu ái với cái tên tha thiết khác là xứ thơ, đã từng được nhắc đến nhiều trong thơ văn và âm nhạc Việt Nam vì nét lãng mạn và thơ mộng tự nhiên. Chính ở nơi ấy, tâm hồn thi sĩ trong tôi nhen nhóm được thắp lên, bước chân của kẻ đa cảm trong giây phút đầu chập chững in dấu trên đường đời.

Huế, trong cơn mưa bụi lây rây, làm sao bước đi giữa những làn mưa mỏng như sương khói ấy mà không khỏi thấp thỏm lo âu. Huế ngày mưa, có ướt áo vai ai? Nhưng rồi đã quá quen với sự bình thản mang trên vai, thấm ướt làn tóc rối, em gái Huế mong manh hao gầy chợt hiện thấp thoáng trong thơ ca của biết bao chàng nghệ sĩ trót đắm say. Huế muôn thuở vẫn thổn thức trong lòng kẻ lang thang giàu xúc cảm, ôm mộng thẩn thờ chiều hoang biền biệt.

Đến với Huế để được một lần nằm trải mình trên thảm cỏ trước cột cờ Phu Văn Lâu nhìn cánh diều ai thả trôi trên nền trời mà kẻ thưởng ngoạn đang dõi theo. Đến với Huế để một lần được lang thang khắp kinh thành bằng những vòng quay xoay tròn bánh xe xích lô. Quần thể di tích cố đô với khu Đại nội tái hiện cho người khách ghé thăm tường tận hơn một mảnh nhỏ đời sống xưa của các vua chúa. Lăng tẩm và đền miếu là những gì gần gũi thân thiết nhất mà bạn còn có thể cảm nhận được với tình yêu lịch sử của các vua chúa. Đến với Huế để một lần bước qua cầu Trường Tiền bắc ngang dòng sông Hương thơ mộng đã bao lần chứng kiến những biến cố thăng trầm của đất nước trải dài theo năm tháng, để một lần ghé thăm một trường Quốc Học đã từng đào tạo ra biết bao thế hệ anh tài của nước Việt, và vẫn còn đang tiếp tục làm tròn sứ mệnh đó.

Với nghệ thuật ẩm thực còn lưu giữ hơn cả nghìn món ăn, có cả những món ăn ngự thiện của các vua chúa triều Nguyễn. Cao lương mỹ vị được bày vẽ công phu tỉ mỹ. Huế là cái nôi của nghê thuật ẩm thực đẹp mắt và thưởng thức tinh tế. Những đêm lênh đênh trên dòng Hương Giang với những ngọn đèn hoa đăng để thả muộn phiền trôi sông, lắng nghe một giọng hò ai từ bến thuyền cất lên thứ âm điệu tươi tắn trang trọng chỉ có duy nhất ở Huế. Chỉ có người Huế với giọng Huế mang đậm sắc thái địa phương mới thổi hồn vào được thứ âm nhạc độc nhất. Đó chính là Ca Huế. Huế còn là nơi lưu giữ cái nôi nghệ thuật của âm nhạc cung đình có nguồn gốc từ thời Lê. Nhã nhạc cung đình và vũ khúc cung đình, một nét nghệ thuật cổ truyền được lưu giữ từ thời vua chúa, vẫn đang khẳng định nét đặc trưng riêng của người Việt trên toàn thế giới. Ôi bao nhiêu điều đáng yêu đáng quý vẫn còn nằm sừng sững nơi đó mà đứa con tội đồ trót tha hương không dám dùng thứ ngôn từ mộc mạc khô cằn này để gợi nên.

Có lẽ đối với những vị khách lữ hành phương xa, Huế được nhắc đến với hình ảnh danh lam thắng cảnh nổi tiếng đang thu hút bạn bè du lịch gần xa. Nhưng đối với riêng tôi, Huế là tình yêu, là trái tim của một người con tha phương, của em gái Huế mơ mộng đã trót lỡ chạm tay vào những yêu thương nên ích kỉ ôm trọn vào lòng cả một bầu trời nhung nhớ.

Cứ mỗi lần về, tôi không thấy Huế thay đổi gì nhiều. Chỉ là cầu Tràng Tiền nổi bật hơn với nhiều màu sắc, chỉ là tà áo dài tung bay trên những hẽm phố không còn gợi nhớ sắc tím thủy chung trong thi ca xưa… Nhưng Huế trong tôi vẫn mãi là “Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được. Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư.”

Lần trở về nào cũng xôn xao nôn nao của một tuổi hoa mộng đã trôi qua. Lần trở về nào cũng là lần đầu bước ra đi. Vẫn nước mắt ngắn dài hát thầm “Một sớm mưa nhiều tôi rời thành xưa. Sông nước tiêu điều nhỏ lệ buồn đưa…”Lần trở về nào vẫn là Huế buồn muôn thuở. Và em, cũng như lần xa nhau nào vẫn là “Anh ơi! Huế bây giờ buồn lắm không anh?”

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: vanhoadoanhnghiepvn

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Thay đổi đến từ đâu giữa thế thời đảo điên?

0

(873 chữ, 3 phút đọc)

Hãy nói cho tôi biết, bạn có phải là một người quan tâm đến những vấn đề chung của cộng đồng như môi trường, giáo dục, kinh tế, xã hội,… hay không? Nếu có, ắt hẳn bạn đã có một cái nhìn nhất định về thời đại mà mình đang sống và đã từng nghe không ít lời ong tiếng ve về nó. Người ta bình luận, người ta phân tích, người ta mổ xẻ thậm chí có kẻ nguyền rủa, chửi bới. Có vẻ như con người chưa bao giờ biết hài lòng với hiện tại. Có thể coi đó như một động lực thúc đẩy thế giới phát triển về mọi mặt nhưng nó cũng là tác nhân khiến cho chúng ta mỗi ngày phải nghe, xem, đọc những lời chửi bới của thiên hạ đến mỏi mệt tâm trí, một món ăn tinh thần mà chúng ta đã chán ngán.

Dễ cũng đến vài trăm lần tôi nghe người ta than thở về cái gọi là “thời thế đảo điên”, rồi thì “thời mạt vận”, vân vân và vân vân. Điều ấy cũng đã từng khiến tôi trăn trở rất nhiều từ thuở tập tành quan tâm thế sự. Nhưng đến hôm nay, tôi cảm thấy có một chút gì đó nhạt nhòa trong cái cách mà mình bị tác động bởi những vấn đề chung của cộng đồng, không còn mãnh liệt như xưa. Phải chăng mình đang dần trở nên vô cảm hơn, hoặc cũng có thể, cái tăm tối của xã hội mà mình đang sống mỗi lúc một dày đặc hơn và nó khiến cho mình dần chìm vào tình trạng quen với bóng tối, như những đệ tử phái cổ mộ trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Có vẻ như con người chúng ta khi trưởng thành trong cái gọi là “thời thế đảo điên” ấy đã vứt bỏ dần cảm xúc của mình, biến sự vô cảm thành một cái gì đó thật là thời thượng, một thực trạng không thể tránh khỏi. Không có một thứ đề kháng nào để cho người ta có thể chống lại con virus vô cảm đang từng ngày ăn mòn tâm hồn mình.

Chỉ có một cách duy nhất là kiểm soát sự quan tâm, tập trung vào chính mình, thu nhỏ dần cái hiện thực mà đang khiến bạn hao tâm tổn trí. Chẳng phải người ta vẫn thường nói rằng muốn thay đổi thế giới, trước tiên hãy thay đổi chính mình đó sao?

Thế giới thông tin rộng mở ngày hôm nay ngoài việc làm cho người ta hiểu biết nhiều hơn thì cũng gây nên những hệ lụy trên con người. Nó gieo rắc nhiều hơn nỗi sợ hãi. Người ta lo sợ về mọi thứ từ không khí mình thở, cốc nước mình uống, chỗ mình ngồi, nơi mình ngủ, những người mình tiếp chuyện… Dần dà bạn sẽ cảm thấy rằng sống lạc quan trong thời buổi này đang mỗi lúc một trở nên không tưởng. Đôi lúc bạn chỉ muốn đập bỏ đi những phương tiện thông tin quanh mình và sống vô tư như một con thú hoang trên đồng cỏ, chỉ cảnh giác với kẻ thù (đương nhiên, loài nào mà chẳng có kẻ thù, con người thậm chí còn trở thành kẻ thù của chính mình.)

Một hệ lụy nữa của cuộc sống ngập ngụa với thông tin đó là nó khiến cho người ta sống quá nhiều trong một thứ hiện thực phì đại vượt mức cho phép mà quên trở về với thực tại quanh mình. Người ta có thể mãi bàn về một bãi rác đang bốc mùi ở đâu đó mà quên dọn đống rác ngay trong vườn nhà mình, chuyện đó hoàn toàn có thể xảy ra và khi chúng ta nhận ra nó, hãy tin tôi, nó thật sự kinh khủng không kém.

Đến đây, để cho không khí của bài viết này bớt nặng nề hơn trước khi kết thúc, có lẽ chúng ta cần một chút âm nhạc. Tôi rất thích một ca khúc trong sự nghiệp âm nhạc vĩ đại của ông vua nhạc pop Michael Jackson, ca khúc Man in the mirror. Nó có một đoạn như thế này:

“I’m starting with the man in the mirror
I’m asking him to change his ways
And no message could have been any clearer
If you wanna make the world a better place
Take a look at yourself and then make a change.”

Hiện tại tôi đang nghĩ, phải chăng mình nên quan tâm đến nhân loại này, cộng đồng này một chút, vừa đủ để không phải tự cách ly mình với thế giới. Sau đó, trở lại ngay với thế giới nhỏ bé quanh mình, thế giới rộng lớn bên trong tâm hồn mình, nội tâm mình và không ngừng nhắc nhở bản thân rằng mình cũng là một phần của thế giới. Vậy thì chúng ta phải thay đổi cái gì đây? Tôi biết và bạn cũng biết rồi, việc còn lại hoàn toàn nằm ở ý chí của mỗi người. Và sẽ thật tuyệt vời nếu tất cả đồng lòng.

Tác giả: Nguyễn Tài

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

[THĐP Translation™] 7 câu hỏi giúp một người cởi mở đầu óc từ Tiến sĩ Jordan B. Peterson

0

7

(558 chữ, 3 phút đọc)

Có thể bạn cũng nhận thấy rằng chúng ta gần đây đều đã bị Tiến sĩ Jordan Peterson thu hút tới mức mê say.

Ông quả là một nhân vật rất đáng nể.

Peterson là một nhà tâm lý học lâm sàng người Canada, là người từ khoảng hơn một năm qua đã bứt lên tuyến đầu trong lĩnh vực ý thức trực tuyến tập thể (collective online conciousness) với hàng loạt bài giảng và video được ông đăng tải trên YouTube.

Một cách chân thành nhất, tôi có thể nói rằng những bài giảng, thông điệp và niềm đam mê mạnh mẽ của ông đã truyền đi vô vàn cảm hứng. Ông là một thiên tài uyên bác, có một hiểu biết hết sức sâu sắc về việc làm thế nào để sống một cuộc sống tốt đẹp.

Nếu bạn đang rất mong muốn được tìm hiểu thêm về Peterson, gần đây chúng tôi đã đăng một bài viết chia sẻ về 40 phương châm cuộc sống giá trị từ Tiến sĩ Jordan Peterson, và bài viết này cũng dẫn link đến những video hay nhất của ông. Chúng tôi cũng đã đăng một bài về những điều được Peterson xem là lối thực hành tâm lý hữu ích nhất mà một người có thể làm, và một bài về 35 nguyên tắc cốt yếu từ Tiến sĩ Peterson để đạt hiệu quả tối đa trong công việc và gia tăng năng suất. Sẽ thật đáng tiếc nếu bạn bỏ qua những bài này.

Jordan Peterson được hỏi trên Quora:  Những câu hỏi nào có khả năng khơi gợi suy nghĩ nhất mà một người có thể tự đặt ra cho bản thân. Câu trả lời của ông bao gồm 7 câu hỏi dưới đây.

Tôi khuyến khích bạn suy ngẫm về chúng, viết gì đó về chúng, thậm chí thêm chúng vào danh sách những mục tiêu của bạn trong Chương trình Tạo tác Bản thân. Khi bạn có được câu trả lời rõ ràng đầy đủ cho những câu hỏi này, bạn sẽ trở thành một phiên bản mạnh mẽ hơn nhiều của chính mình.

  1. Làm thế nào tôi có thể hành động nhất quán để giảm thiểu cái ác trên thế giới?
  2. Làm thế nào tôi có thể không ngừng cải thiện chất lượng các hành động mà tôi lặp lại mỗi ngày (khi mà chúng hình thành nên gần như toàn bộ cuộc sống của tôi)?
  3. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi chỉ nói ra những gì tôi tin là đúng?
  4. Điều gì khiến tôi quan tâm đến một số thứ chứ không phải những thứ khác (vì dường như đây không phải là một lựa chọn tự nguyện)?
  5. Tại sao khoa học hầu như không dạy chúng ta về ý thức?
  6. Làm thế nào tôi có thể trở nên đủ mạnh mẽ để là người hữu ích trong cuộc khủng hoảng?
  7. Tôi hiện đang làm được gì để đem lại thêm được nhiều ý nghĩa và chất lượng nhất cho cuộc sống của mình? Những điều này – bằng cách nào tôi có thể làm được chúng nhiều hơn nữa (và làm ít đi những gì khiến những ý nghĩa và chất lượng ấy bị giảm bớt)?

Tác giả: Jon Brooks – Jordan B. Peterson
Dịch: Sang Doan
Review: Dương Tùng

Featured image: Daniel Hambury—Evening Standard/eyevine/Redux

📌 Ủng hộ dịch giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

Phan Chu Trinh đã “ra đi tìm đường cứu nước” như thế nào

0

(3683 chữ, 11 phút đọc)

Đất Quoảng Nôm chưa mưa moà đoã thắm
Rượu Hồng Đồ chưa nhắm moà đoã say.

Câu hát của miền đất dễ thương, có lẽ đất linh nên sinh ra nhiều người hào kiệt. Cái tiếng nói của người Quảng Nôm, chân chất, dễ thương, làm cho một người miền Tây Nam Bộ như tôi mê mẩn. Quảng Nôm, mặc dù yêu thầm nhớ trộm đã lâu, nhưng cũng chưa có dịp nào về thăm cho thoả, nhất là đi để thấy nơi đó núi sông linh thánh thế nào mà sinh ra nổi Phan Chu Trinh, một người đi trước thời đại hơn trăm năm lẻ.

1. Thi làm quan, thi từ quan, thi phá quan

Phan Chu Trinh sinh năm 1872, người Quảng Nôm, cha theo nghiệp võ, bên ngoại thì nghiệp văn. Thuở nhỏ ưa sự tân kỳ, giỏi kiêm văn võ, cùng bôn ba với cha trong phong trào Cần Vương kháng Pháp. Lớn một chút đi học xa, làm quen với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp cùng nhiều thanh niên tiến bộ, các ông đều có chí hướng kinh bang tế thế.

Năm 1901, đi thi ở Huế đậu phó bảng. Ông Nguyễn Sinh Sắc cũng thi đậu phó bảng chung khoá này. Năm này, ông Phan Chu Trinh đã ba mươi tuổi, em bé Ngô Đình Diệm thì vừa ra đời ở Quảng Bình.

Phó bảng Trinh được bổ nhiệm làm chức quan nhỏ nhỏ trong bộ Lễ, là bộ chuyên về lễ lạc nghi thức. Trong thời gian này, cụ Trinh cùng các bạn đồng liêu tiến bộ đọc được các sách tư tưởng mới của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Montesquieu, Rousseau và nhiều sách khác. Cụ vốn chán ghét lối học tầm chương trích cú kiểu “sách có câu” của Nho học; bén rễ với lối học phân tích và tổng hợp của Tây phương, từ các sách vở đó rút tỉa được nhiều tư tưởng trị quốc khác hẳn với kiểu cai trị Nho giáo đạo đức giả và “quan phụ mẫu” đương thời. Cùng thời điểm đó, tức năm 1904, hai bạn học Cáp và Kháng cũng đậu tiến sĩ và ra làm quan.

Đem những tư tưởng mới trao đổi với nhau, các ông dần nhìn thấy con đường sáng để làm cho dân tộc độc lập, đất nước giàu mạnh, đó là con đường đấu tranh bất bạo động, đầu tiên là mở mang đầu óc dân chúng, kế đó truyền cho họ ý thức tự lực tự cường, và sau là giúp dân đời sống ấm no qua các phương pháp làm ăn mới mẻ. Sau các ông thống nhất từ quan một lượt, để đi khắp nơi tìm cách vận động cho công cuộc của mình.

Bình: Cách đây một trăm mười năm mà các ông đã đả-thông được tư tưởng, từ bỏ con đường quan lại, tìm đường thúc đẩy dân chủ nhân quyền, thật là đáng mặt những đàn ông nước Việt dám nói “không để càn khôn tự chuyển dời” lắm chớ!

Năm 1905, các ông bàn nhau Nam Kỳ là xứ Indochina, giao thoa đủ thứ văn minh Tây Ta Hoa Ấn, lại được người Pháp đầu tư xây dựng, dân chúng tiến bộ, được cả hai ghế trong quốc hội Pháp, nên quyết đi tới nơi coi cho biết, và sẵn tìm thêm nhiều người có chí hướng tiến bộ để trao đổi và kết bạn.

Cuốc bộ tới Bình Định, gặp trường thi tú tài (?), mấy ông đăng ký thi với tên giả và làm thơ làm phú nội dung “nhạy cảm” và có chút “phản động”, sau đó nộp bài. Ra khỏi trường thi, cả ba cười nắc nẻ rồi dong tuốt vô Nam du hý, giao kết được thêm nhiều thanh niên tiến bộ.

Bình: Đã thi đậu làm quan trong triều, văn tài không phải tệ, kinh sử cũng thuộc làu, lại dùng những thứ sử kinh của Nho giáo mà đùa bỡn bọn môn đồ Khổng Mạnh, dùng thơ phú chê cười đám mọt sách chỉ biết mê mải lợi danh, thực là thâm thuý mà cũng đắng cay lắm. Chẳng khác gì ngày nay viết một bài luận dùng rặt câu chữ của ông Mác ông Minh để mà bỉ bôi đám tham quan ô lại trong nước. Cái khóc cái cười của người trí thức chính là nhịp thở của non sông vậy!

2. Tìm đường cứu nước loanh quanh

Từ miền Nam, các ông trở ngược ra Bắc, đi hết tỉnh này đến tỉnh kia, kết giao được thêm nhiều trí thức có hùng tâm dũng chí. Trong thời gian này, được người giới thiệu Phan Bội Châu và phong trào của ông nên chí sĩ Phan Chu Trinh đi thẳng sang Quảng Đông – Trung Quốc để tìm Phan Bội Châu bàn soạn con đường lo cho dân nước. Khi gặp nhau hội đàm, hai người đều tâm đắc chí hướng canh tân đất nước khởi nguồn từ dân trí, và coi nhau như bạn hữu thân tình. Rồi chí sĩ Phan Bội Châu mời ông sang Nhật để xem cuộc cải cách của Thiên hoàng Minh Trị, đã làm thay da đổi thịt đất nước như thế nào.

Tuy nhiên, khi Phan Chu Trinh đến Nhật, thì bắt đầu nảy sinh một số quan điểm bất đồng với Phan Bội Châu. Phan Chu Trinh chủ trương bất bạo động và dân chủ, còn Phan Bội Châu thì có xu hướng nhờ Nhật viện trợ và huấn luyện quân sự để khởi nghĩa vũ trang, Phan Bội Châu cũng đeo đuổi chế độ quân chủ với việc lập hoàng thân Cường Để làm vua . Mặc dù vậy, Phan Chu Trinh vẫn ủng hộ chương trình đưa thanh niên sang Nhật du học của Phan Bội Châu. Ở Nhật vài tháng thì chí sĩ Trinh về nước, sau khi đã tham quan tường tận cuộc Duy tân ở Nhật.

Bình: Người xưa hết sức đáng nể, trong nước đi bộ xuôi nam ngược bắc đã là kỳ công, mà muốn đi nước ngoài liền đi được ngay. Họ không cần tiền bạc đi đường hay sao, trong khi đã từ quan, không có bổng lộc, cũng chẳng có tham ô, tiền ở đâu mà ra? Là bởi vì, nhờ các bạn có cùng chí hướng, cũng là người hào sảng, các chí sĩ đi tới đâu thì nơi đó tiếp đón ăn ở, khi đi khỏi thì lại tương trợ thêm lộ phí, người nào có điều kiện thì tương trợ nhiều. Cứ như thế mà đi, dù trong hành trang lúc khởi đầu không có mấy quan tiền. Sử sách không nói rõ chi tiết này, cũng bởi đây là chuyện tế nhị, mà người Việt lại là dân tộc siêu khách sáo. Chỉ có những người phi thường mới vượt được cái mặc cảm nhỏ để lo việc lớn mà thôi!

3. Tìm ra đường rồi, về thực hiện và bị ở tù

Năm 1906, nhận thấy mình đã tìm ra được con đường đúng đắn tại Nhật, chí sĩ Phan Chu Trinh cùng các bạn Kháng và Cáp vạch định ra các bước thực hiện chương trình canh tân đất nước như sau:

  • Vận động nhà cầm quyền Pháp cải cách nền chính trị Việt Nam, bỏ chế độ quân chủ, áp dụng chế độ quân chủ lập hiến, dần đi đến nền cộng hoà cho An Nam
  • Nâng cao dân trí: Bỏ Nho giáo, du nhập Tây học; bỏ các hủ tục, du nhập văn minh phương Tây…
  • Phổ biến và hun đúc tinh thần dân chủ: Đề cao phẩm giá bản thân mỗi con người, tinh thần tự lực tự cường, trách nhiệm với cộng đồng, ý thức về sự bình đẳng và tinh thần tự do…
  • Phát triển đời sống vật chất của người dân: Nhập các thiết bị hiện đại, du nhập các tiến bộ khoa học kỹ thuật, mở các nghiệp đoàn và công đoàn, đề cao sản xuất…
    Khẩu hiệu của các ông là: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.”

Bình: Vì sao mà “dân sinh” lại đặt sau cùng? Con người sống, cái đầu có thể ngu nhiều chục năm rồi mới khôn, cái óc có thể hèn nhiều năm rồi mới dũng. Ngu dốt và hèn nhát thì vẫn sống, nhưng cái bao tử không thể nhịn đói mấy ngày mà người sống khoẻ. Dân trí dân khí tệ lậu làm cho người ta nghĩ rằng: ăn no rồi tính sau. Cho nên, đem chuyện dân chủ nhân quyền ra mà nói với kẻ bình dân hoặc với kẻ trí thức đói khát, thì cũng bằng thừa. Con đường của các ông không sai, nhưng nó lý tưởng quá! Người Việt thì cần phải trần trụi và “mì ăn liền” thì may ra. Cho nên, chuyện dân sinh vẫn cần đặt song song với chuyện khai dân trí và chấn dân khí, hoặc ít ra phải làm sao cho dân tin là như thế. Mặc dù vậy, người trí thức đủ tầm vóc để hiểu và ủng hộ các ông không phải là ít.

Các thành tích của phong trào Duy Tân rất đáng kể. Chỉ trong một năm bắt đầu tháng 06/1906 – 07/1907, từ tỉnh Quảng Nam quê nhà của Phan Chu Trinh, phong trào lan ra khắp xứ Trung Kỳ, lan vào tận Sài Gòn, ảnh hưởng tận Hà Nội. Cụ thể:

  • Phan Chu Trinh viết thư cho Toàn quyền Đông Dương Paul Beau để yêu cầu nhà cầm quyền Pháp cải cách chính trị cho An Nam
  • Rất nhiều trường học và thư xã để truyền bá Quốc ngữ và tiếng Pháp thành lập. Lối học tầm chương trích cú bị bài bác, thay vào đó là lối học diễn dịch và quy nạp của phương Tây
  • Nhiều hội thương nghiệp và nghiệp đoàn được thành lập
  • Người dân Việt mặc quần tây và áo sơ mi, cắt tóc ngắn hiện đại, cắt móng tay… trở nên phổ biến là bắt đầu từ thời kỳ này
  • Người dân ý thức được quyền lợi của mình nên ở Trung Kỳ nổ ra phong trào chống sưu thuế rầm rộ từ giữa đến cuối năm 1907 (năm này vua Thành Thái bị đi đày, thượng thư Ngô Đình Khả từ quan, chú Diệm bảy tuổi, đi học và chăn trâu cắt cỏ)
  • Phan Chu Trinh được mời ra dạy tư tưởng ở Đông Kinh Nghĩa Thục (có gặp và quen biết ông Nguyễn Hữu Kha bố của Thiều Chửu, lúc này Thiều Chửu nhẽ vừa biết đi biết nói)
  • Nhiều hội đoàn và phong trào khác trong và ngoài nước cũng liên kết và ủng hộ phong trào Duy Tân

Phong trào Duy Tân tới đầu năm 1908 chưa tròn hai năm, chỉ gieo chưa gặt, thì tất cả lãnh đạo phong trào cùng Phan Chu Trinh đều bị Pháp bắt. Tháng 04/1908, Phan Chu Trinh được một vé ra đảo, là đi đập đá ở Côn Lôn, chung thân khổ sai!

Bình: Giả dụ thời cụ Trinh có facebook có lẽ phong trào Duy Tân sẽ thành công không tưởng, bởi trong bối cảnh mọi thông tin chỉ bằng thư tay và truyền miệng, mà cuộc Duy Tân trong quãng thời gian ngắn ngủi đã lan rộng khắp nước, ảnh hưởng vô cùng sâu sắc với quốc dân. Thì tại sao bây giờ phương tiện công nghệ tân kỳ, ngồi nhà cũng tai nghe mắt thấy chuyện bên Tây, mà chẳng có nổi phong trào cải cách nào có sức lan toả vào xã hội bình dân? Dân bây giờ có lẽ nào tệ hơn dân một trăm năm trước hay sao?

4. Lưu vong hay tìm đường cứu nước lần hai

Phan Chu Trinh ra đảo được hai năm, tuổi vừa ba mươi tám. Trong thời gian này, dư luận An Nam sôi sục. Hội Nhân quyền Hà Nội, các nghiệp đoàn, thương hội, công đoàn, báo chí, học sinh, nhân sĩ trí thức… liên tục tổ chức biểu tình, bãi công, bãi thị, diễn thuyết, ký thỉnh nguyện thư… để đòi thả Phan Chu Trinh và các bạn. Tình hình xao động đến cả nước Pháp, các chính khách thân thiện ở Pháp và Hội Nhân quyền Pháp cũng vào cuộc đấu tranh kiến nghị với chính phủ Pháp trả tự do cho Phan Chu Trinh.

Bình: Có ai liên tưởng tới Nelson Madenla và tù nhân lương tâm nào khác không?

Trước sức ép dư luận, Pháp phải trả tự do cho Phan Chu Trinh vào tháng 08/1910 và đem ông về quản thúc tại Mỹ Tho. Sau đó nhận thấy uy tín của Phan Chu Trinh mỗi lúc một cao, sợ sinh biến, nên buộc ông phải lưu vong sang Pháp, tin tức này công khai nhiều người biết.

Trong một diễn biến khác cùng khoảng thời gian này, Nguyễn Sinh Sắc làm quan huyện bị triều đình sa thải. Sợ các mối thù hằn cũ sẽ đến báo oán khi không còn quyền lực, ông Sắc dắt Nguyễn Sinh Coong bỏ quê chạy vào Nam Kỳ trốn tránh, thay tên đổi họ sống lang bạt rày đây mai đó. Khi biết người quen cũ là Phan Chu Trinh đang ở Mỹ Tho và sắp được đi Pháp, ông Sắc đã dắt con tới bái kiến và gởi gắm, dạy Coong kêu Phan Chu Trinh bằng “bá phụ đại nhơn.” Sau đó, ông Sắc tiếp tục lang bạt kỳ hồ, cuối cùng lập gia đình khác và chết già tại Cao Lãnh.

Năm 1911, Phan Chu Trinh sang Pháp, có con trai là Dật theo cùng. Cùng năm đó, có một bức thư viết bằng tiếng Pháp, gởi cho tổng thống Pháp, nội dung đại khái xin được học ở Pháp, ký là Nguyễn Tất Thành, đề năm 1911. Tất nhiên, Thành chính là Coong, cái tên mới này là kỷ niệm cuối cùng của ông Sắc và Coong. Chuyện Nguyễn Sinh Coong có đi chung với Phan Chu Trinh hay tự đi một mình chưa xác định, nhưng chắc chắn một điều là khi sang Pháp thì Coong nương nhờ chí sĩ Phan Chu Trinh một thời gian dài, xem ông như thầy như cha. Và, không có chuyện Coong “ra đi tìm đường cứu nước” như người ta vẫn thổi phồng.

Một bức thư tay mà Coong gởi cho chí sĩ Phan Chu Trinh, lời lẽ rất tôn kính và có chút xíu nhõng nhẽo:

H1

Hy Mã nghi bá đại nhơn.
Cháu kính chúc Bác, em Dật và ông Trang (Trạng?) mấy các anh em ta ở Paris đều mạnh giỏi.
Nay cháu đã tìm được nơi [giễ?] học tiếng.
Mấy 4 tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, [tém?] tiếng Tây luôn luôn, tuy ở Anh song chẳng khác gì ở Pháp và ngày tháng luống [nhưng?] chỉ lo [hau?] khỏi đói chớ chẳng học được bao nhiêu. Mà cháu ước ao rằng 4, 5 tháng nữa lúc gặp Bác thì sẽ nói và hiểu được tiếng Anh nhiều nhiều.
Bên ta có việc gì mới và nếu Bác dịch mấy hồi sau xong rồi, xin Bác gởi cho cháu.
Nay kính, C.D. Tatthanh
Drayton Court Hotel, West Ealing W. London

[Tái bút] Chuyến này Bác sẽ đi nghỉ hè đâu?

Phan Chu Trinh ở Pháp, vừa đi dạy vừa tiếp tục vận động cho việc cải cách chính trị ở Việt Nam, nhưng không khả quan. Ông cũng gặp được các trí thức người Việt là Phan Văn Trường – Nguyễn Thế Truyền đang sống tại Pháp, và các ông cùng hoạt động vì nước.

Được ba năm, chiến tranh thế giới I nổ ra, có kẻ bí ẩn cáo giác với chính quyền Pháp rằng Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường là điệp viên của Đức, khiến hai ông bị bắt giam và thẩm tra gần mười tháng trời, đến tháng 07/1915 mới được trả tự do.

Ra tù, mất việc, chí sĩ Phan Chu Trinh làm nghề nhiếp ảnh để mưu sinh, và hoạt động cũng vì thế mà giảm sút. Chính trong khoảng thời gian này, tư tưởng và đường lối của ông bắt đầu có chuyển biến. Ông cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của chính giới, công luận và thậm chí cả giới kinh tài người Pháp, vận động bất cứ sự hỗ trợ vật chất và tinh thần nào cho người Việt, thông qua các bạn của ông còn ở trong nước.

Năm 1919, Phan Chu Trinh cùng các bạn viết Bản Yêu sách của nhân dân An Nam, ký tên giả là Nguyễn Ái Quốc, rồi cùng Coong đem tới gởi Hội nghị Versailles (chẳng biết vì sao hình lưu truyền lại chỉ có mình Coong?) Coong khi này 29 tuổi, chưa có hoạt động gì đáng kể, chủ yếu là lúi húi làm bồi bàn kiếm sống các nơi.

Trong khoảng từ 1919 – 1925, tư tưởng của Phan Chu Trinh chín muồi, ông viết lách khá nhiều và gởi về phổ biến trong nước. Uy tín của ông tại ba kỳ đều cao vượt, nhiều người trẻ thức tỉnh, canh tân bản thân, tìm hiểu về dân chủ và nhân quyền, tầng lớp trí thức và dân chúng không ai mà không biết tới Phan Chu Trinh.

Năm 1925, mười lăm năm bị lưu vong đất khách, cụ Phan Chu Trinh năm mươi bốn tuổi, được Pháp cho hồi hương; trước đó ở quê nhà Quảng Nôm, vợ và con trai cả đã mất vì bệnh tật, hai cô con gái đã lấy chồng, người chí sĩ trở về thấy gia cảnh quạnh hiu tứ cố vô thân. Cụ tiếp tục diễn thuyết và viết lách để truyền bá tư tưởng dân chủ và nhân quyền, phê phán đả kích chế độ quân chủ độc tài, khuyến khích công thương nông nghiệp, được giới trẻ và trí thức ủng hộ.

Năm 1926, cụ qua đời tại Sài Gòn.

Bình: Ngày xưa, bắt lưu vong vì không thể giết không thể bỏ tù nhưng cũng không thể để cho tự do tồn tại. Rõ ràng, khi lưu vong thì nhà chí sĩ như bị trói tay chân, hoạt động không còn hiệu quả, bởi bị cô lập khỏi những người ủng hộ. Ngày nay, chuyện lưu vong chẳng có mấy ý nghĩa, do kỹ nghệ tân kỳ, giao tiếp với nhau cách xa vạn dặm mà cũng như ngồi đối mặt. Bởi thế, bắt ai đó lưu vong không phải vì họ nguy hiểm với nhà cầm quyền, mà vì sự lưu vong đó được dùng như một sự đổi chác lợi lộc cho nhà nước mà thôi.

5. Đến chết vẫn còn “gây rối trật tự công cộng”

Vì cụ không có thân nhân ở Sài Gòn, cho nên các nhân sĩ trí thức người Việt lập ra một ban tổ chức lễ tang cho cụ. Không ngờ, lượng người đi đưa tang cụ tại Sài Gòn lên đến cả trăm ngàn, gồm đủ mọi thành phần từ thợ thuyền, học sinh, thương nhân, trí thức, nhân viên công chức, tu sĩ, nông dân… Khí thế vô cùng hùng tráng, tưởng không có lễ tang hay sự kiện nào lớn hơn từ trước tới nay tại xứ Annam. Người ta tiếc thương cho một nhân cách lớn, một bộ óc vĩ đại và một trái tim chảy hết máu vì dân vì nước.

H1

H1

Sau đó chưa hết, tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ, thanh niên và trí thức tiếp tục phát động phong trào để tang cho cụ Phan Chu Trinh. Họ tổ chức nhiều cuộc hội họp, biểu tình ôn hoà, diễn thuyết công khai để tưởng nhớ cụ, truyền bá tinh thần dân chủ và ý thức nhân quyền. Số lượng người tham gia vô cùng đông, ở cả ba kỳ, hoạt động dân chủ ôn hoà diễn ra rầm rộ, đến nỗi làm cho nhà cầm quyền Pháp phát điên, phải dùng thủ đoạn gian trá và độc tài là bắt ép các trường Tây học cấm học sinh tham gia phong trào (nếu tham gia bị đuổi học), bắt bớ một số người hoạt động, đuổi việc thợ thuyền, sa thải công chức… Phong trào dân chủ chuyển thể sang hình thái khác.

Bình: Nhìn chuyện người Việt truy điệu và để tang cho cụ Trinh cách nay gần thế kỷ, rồi so lại với tình hình bây giờ chợt thấy mủi lòng, vẫn chưa có người nhân sĩ trí thức ủng hộ dân chủ nào có tầm ảnh hưởng và uy tín đủ với quốc dân bằng một góc cụ Trinh, chưa có phong trào dân chủ nào đánh động được tới tâm hồn và lối sống người Việt. Các trí thức tiến bộ, bạn chờ có người gánh thay trách nhiệm của bạn mãi hay sao mà chưa chịu xuất đầu lộ diện? Quốc dân, bạn còn mê ngủ mãi hay sao?

6. Bình luận của người viết

Cụ Phan Chu Trinh là lãnh đạo của nhóm người có tư tưởng dân chủ sớm nhất ở Việt Nam. Cụ tuy là quan viên với con đường hoạn lộ thênh thang, bụng chứa thi thư, nhưng lại từ bỏ nền quân chủ và đấu tranh cho việc người dân có quyền làm chủ đất nước.

Cụ chủ trương đường lối ôn hoà bất bạo động, dù trước đó, cha cụ là nghĩa sĩ vũ trang của phong trào Cần Vương.

Phong trào dân chủ hiện đại phải rút kinh nghiệm từ bài học của trăm năm trước, cần phải bắt đầu trở lại bằng phong trào Duy Tân. Những việc lớn cần duy tân trước mắt mà mỗi người có thể tự làm được:

  • Mở mang tinh thần hiếu kỳ và nghi ngờ khoa học cho giới trẻ, bài xích 100% lối học thuộc lòng thiếu tư duy. Khuyến khích tỵ nạn giáo dục và home-school, tẩy chay bằng cấp.
  • Hướng dẫn cho người dân biết quyền và vị thế của họ trước cơ quan công và các nhân viên công chức được trả lương từ thuế.

Tác giả: Hai Le

Edit: Triết Học Đường Phố

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2 

 

Lao phổi tâm hồn – Y học bó tay với căn bệnh thế kỷ

0

(882 chữ, 3 phút đọc)

Tôi không am hiểu về y học, cũng chưa bao giờ có ý định dấn thân vào con đường cứu sống tính mạng của kẻ khác, bởi tôi là một kẻ bệnh hoạn đang che giấu trong mình bao nhiêu bệnh tật. Đối với những chẩn đoán, cơ thể tôi không ốm o gầy héo, nhưng tâm hồn tôi đang lụn dần đi theo từng ngày trôi qua. Tôi mang trong mình căn bệnh thế kỷ chưa tìm ra được phương thuốc chữa, căn bệnh lao phổi tâm hồn.

Sự khác biệt lớn nhất giữa người bình thường và những kẻ mắc bệnh như tôi là việc chúng tôi bị nghiện sự đau khổ và tuyệt vọng. Người bình thường hài lòng với tâm hồn thư thái, một tâm hồn ngoan ngoãn dễ chịu, họ mong ước những cơn đau bước qua đời họ bằng bước chân rón rén. Chúng tôi thì lại không chịu nổi tâm trạng hài lòng đó. Chúng tôi vui chơi với đau khổ tuyệt vọng đến nỗi mãn nguyện với nó rồi đâm ra thù ghét và muốn chạy trốn sự hạnh phúc. Chúng đã trở thành một phần máu mủ trong đời sống chúng tôi, nếu như phải sống mà thiếu vắng đi cảm giác đau khổ, chẳng khác gì cây khát nước, con người khát không khí để thở. Cuộc sống sẽ trở nên nhạt nhẽo với những ngày mà người bình thường ngợi ca tốt đẹp.

Rồi chúng tôi quyết định làm cuộc cuộc di cư vào trong những miền hoang vắng cô liêu, bởi đã quá chán ngán những phù du thường nhật mà con người bình thường đang tôn thờ. Chúng tôi khinh bỉ những điều đã tạo ra cuộc sống hài lòng, đó là vật chất tiện nghi, thói lạc quan luôn được bồi bổ và cố gắng duy trì cho đến khi cạn kiệt giọt sức cuối cùng. Việc chăm chút vun trồng tưới bón cho những xoàng xĩnh, đó là tất cả những nỗi khao khát man dại của con người bình thường, nhưng đối với những con bệnh, đó chỉ là một cơn điên cuồng với ham muốn đập nát đi hết tất thảy. Đôi khi tôi muốn cho nổ tung những tòa nhà cao tầng, muốn đập phá hết máy móc thiết bị, biết rằng đó là những hành động ngu xuẩn và ngông cuồng, muốn khạc nhổ một bãi nước bọt rồi vò tóc xúm đầu những kẻ luôn tỏ ra bộ tịch tỏ ra yêu quý cuộc đời.

Tôi biết kẻ mắc bệnh như chúng tôi chỉ là những kẻ biến thái điên tàn. Hiển nhiên là chúng tôi cũng yêu quý cuộc đời này không khác gì những người khỏe mạnh. Tuy nhiên, phải chăng vì quá tôn thờ đời sống mà chúng tôi đâm ra chán ghét những kẻ dùng thứ tình cảm hời hợt để đối diện với lý tưởng của chúng tôi. Làm thế nào cho cả thế giới hiểu ra niềm mong mỏi tìm được một ý nghĩa cho kiếp nhân sinh này được mặc lên trên mình một thứ áo mới không còn vô nghĩa, chí ít là đối với riêng tôi.

Cả thế giới này có lẽ sẽ vồ dập vào tôi để chất vấn, tại sao chúng tôi có thể sống mà không hề chia sẻ được bất kỳ niềm vui nào đối với đời sống này. Không một niềm vui nào của người bình thường mà tôi có thể tìm thấy mình đắm say trong đó. Không thể đọc được một quyển sách thịnh hành, đứng trước niềm vui của bạn bè mình thì tôi quả luôn bất lực trong con đường tìm ra lời giải đáp tại sao những quán cà phê đông nghẹt, những rạp chiếu phim, rồi khu vui chơi giải trí, thú vui trưng diện, ăn uống nhà hàng hạng sang, tất cả đều gây cho tôi cảm giác ngột ngạt khó chịu.

Cũng giống như tôi, bạn bè tôi chẳng thể nào hiểu nổi tôi làm sao có thể hứng thú với thứ văn chương thi ca đầy ảo tưởng. Họ cũng đứng trước mặt tôi trố mắt kinh hoàng với một đứa chỉ có thể sống trong những điều phi thực tế. Thứ thơ ca lãng mạng tôi yêu quý và trót lỡ để mình đi lạc trong đó, tất cả chỉ là một sự điên rồ trong con mắt người khỏe mạnh.

Bao nhiêu lần tôi ném ánh mắt lên bầu trời hét lớn tại sao họ đúng còn tôi phải sai. Nhưng rồi chợt nhận ra nếu quả thật tôi không thể đúng thì việc chấp nhận mình sai cũng đâu có gì quan trọng. Họ bình thường còn tôi bệnh hoạn biến thái. Sống như họ mới là yêu quý cuộc đời thì tôi chấp nhận làm kẻ lạc loài yêu đời bằng tất cả sự điên rồ nhất mà tôi có thể dành trọn cho đời sống.

Nhân loại đang e ngại căn bệnh này. Tuy nhiên đối với tôi, bệnh không nguy hiểm như mọi người vẫn nghĩ. Có khi nếu đã được sống một ngày trong bệnh tật, bạn sẽ còn muốn níu kéo chúng ở lại mãi mãi bên cạnh đời sống mình.

Tác giả: Ni Chi

*Featured Image: Free-Photos

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP

📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2